Các Bài Suy Niệm Lễ Chúa Giáng Sinh – Năm B (Lễ Đêm, Rạng Đông, Ban Ngày)

4611 lượt xem

CÁC BÀI SUY NIỆM LỄ CHÚA GIÁNG SINH NĂM B
(Nhiều tác giả)

Lễ Đêm: Is 9, 2-4. 6-7; Tt 2, 11-14; Lc 2, 1-14
Lễ Rạng Đông: Is 62, 11-12; Tt 3, 4-7; Lc 2, 15-20
Lễ Ban Ngày: Is 52,7-10; Dt 1,1-6; Ga 1,1-18

I. LỄ BAN ĐÊM

1. BÀI HỌC KHIÊM HẠ NƠI MÁNG CỎ BELEM – Lm. Giuse Lê Danh Tường

“Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”

Hang đá Belem năm ấy không như hang đá giáng sinh ngày nay. Người ta làm hang đá mỗi khi Giáng sinh về. Ai cũng cố gắng dùng mọi hình thức để diễn tả cái nghèo khó và vắng lặng của hang đá Belem năm xưa, cố gắng trang hoàng làm nổi bật điều mình muốn diễn tả. Và rồi, sự tấp nập của đêm Giáng sinh và ánh sáng trang trí nơi hang đá đã khiến ta không còn cảm được cái nghèo, cái vắng của Belem nơi Chúa hạ sinh.

Đứng trước máng cỏ với Hài nhi Giê-su ta đối diện với sự khiêm hạ, một sự hạ mình xuống đến tận cùng. Một Thiên Chúa hạ mình đến với con người trong hang súc vật, một Hoàng tử hạ mình xuống nơi hoang vắng nghèo hèn, một vị vua chấp nhận lùi xa trước sự xua đuổi của thần dân mình, Đấng uy quyền xuất hiện trong thân phận hài nhi bé nhỏ không khả năng tự vệ, Đấng là ánh sáng xuất hiện giữa đêm đen.

Thiên Chúa đã đến với con người không với tư cách cha chú hay kẻ cả. Nhưng Ngài đến trong âm thầm, nhỏ nhẹ, kiên trì gõ cửa tâm hồn con người, chờ đợi để được con người mở cửa lòng đón tiếp.

Bởi đâu mà Thiên Chúa phải nhọc công làm vậy? Thưa bởi lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.

Trong bài đọc thứ nhất trích từ sách Isaia, một bài thơ chan chứa niềm hy vọng của tiên tri Isaia: sự sáng bừng lên trong u tối, lòng người reo vui như ngày được mùa, như ngày thắng trận, mọi gông cùm, áp bức bị đập tan, vị Vua Hòa Bình đến ngự trị giữa muôn dân.

Isaia đã tiên báo về một cảnh trời mai chói lọi ấy trong hoàn cảnh dân bị tan tác, mất nhà cửa, bị đi lưu đày. Một cảnh huống mà Isaia diễn tả: Dân tộc đang bước đi trong u tối. Vì sao nên nỗi lầm than như vậy. Dọc chiều dài Kinh thánh cho ta thấy chính con người đã vất bỏ giao ước với Thiên Chúa, từ chối sự hiện diện của Thiên Chúa trong xã hội mình, trong cuộc đời mình. Chính khi rời bỏ Thiên Chúa, lòng người ly tán.

Họ bất trung với Thiên Chúa và quay ra đàng điếm với các thần ngoại; họ cầu cứu những phương thế của loài người để giải quyết chiến tranh; dân cậy dựa vào sức lực của con người để vượt lên số phận; họ tin tưởng và tuyệt đối bám víu vào của cải mau qua ở thế giới này. Con người rời xa Thiên Chúa.

Làm gì đây khi con người đã đóng sầm cánh cửa trước lời mời gọi trở về với Thiên Chúa. Thiên Chúa thua con người rồi sao. Thiên Chúa chấp nhận ly dị với con người sao. Lời thề ước trung thành không lẽ hết giá trị rồi ư.

Không. Tình thương của Thiên Chúa đã không chịu khuất phục trước tội lỗi của loài người. Thiên Chúa đã duy trì mối dây liên kết với con người bằng mọi giá. Chúng ta kiêu căng, Ngài sẵn sàng hạ mình xuống; chúng ta từ chối đón tiếp, Ngài kiên trì chờ đợi; chúng ta lên tiếng sỉ vả, Ngài nhẫn nhục lắng nghe; chúng ta phản bội, Ngài âm thầm dõi theo để chờ đợi giây phút hoán cải.

Thiên Chúa đã hạ mình trong thân phận Hài nhi nơi máng cỏ trong hang đá giữa trời khuya giá rét. Ấy là vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta. Tình yêu xả kỷ đã chiến thắng tội lỗi.

Giờ đây, khi đứng trước hang đá với hàng ngàn bóng điện nhấp nháy như bầu trời sao, bạn và tôi, chúng ta nghĩ gì.

Đứng trước lòng trung thủy trong khiêm hạ của Hài Nhi Giê-su khiến ta chạnh lòng nghĩ tới lòng trung thủy của lòng mình. Tôi và bạn, chúng ta phải làm gì đây trong một xã hội mà dường như sự trung tín, lòng trung thủy với lời kết ước đã trở thành thứ xa xỉ phẩm; khi mà lời kết ước hôn nhân trở thành thứ vô vị và chỉ còn là thủ tục giấy tờ; khi mà mối tương quan được đo bằng tiền.

Lạy Chúa Giê-su Hài Đồng, xin dạy con biết khiêm nhu sống tín thác vào Chúa và tin tưởng ở tha nhân. Giữa những đổ vỡ trong cuộc sống bởi lòng kiêu căng, xin Người hàn gắn và vực con chỗi dậy. Nguyện xin Người kéo lòng con về bên máng cỏ, để con cảm nếm cái thực của một tình yêu tinh tuyền trong khiêm hạ.

2. NHÂN LOẠI ĐANG CẦN VUA HÒA BÌNH – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời và bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2,14) là câu cuối của đoạn Tin Mừng công bố đêm nay chúng ta vừa nghe. Lời các Thiên Thần và một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa, từ 21 thế kỷ qua, Giáo Hội vẫn không ngừng hát lên trong các Thánh Lễ Chúa nhật và Lễ Trọng.

Thế giới hiện nay

Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy bất an, bất ổn. Thập niên đầu tiên của thế kỷ 21 được đánh dấu bằng vụ tấn công khủng bố kinh hoàng vào tòa Tháp Đôi ngày 11 tháng 9 năm 2001 ở nước Mỹ làm hơn 4.000 người chết, khiến nhân loại bị ám ảnh về hiểm họa khủng bố ở khắp mọi nơi, làm cho con người cảm thấy lo sợ, bất an nhiều hơn. Tiếp theo đó là cuộc chiến gọi là “chống khủng bố” nổ ra và những hệ lụy của nó càng đưa thế giới vào tình trạng bất an, bất ổn hơn bao giờ hết.  Đại dịch Covid-19 xảy đến chỉ cho con người biết mình thật sự mong manh và nhận ra sự giới hạn của chính mình. Những tin tức hằng ngày về bạo hành, xung đột, dịch bệnh, thiên tai, nhân họa, ngày càng nhiều trên các phương tiện truyền thanh, truyền hình, internet, nhất là chiến do Nga châm ngòi tại Ucraina gần 1 năm nay… khiến nhiều người lo âu tự hỏi không biết thế giới chúng ta đang sống sẽ đi về đâu.

Về phương diện nội tâm, lòng người vốn bất an nên sinh ra bất hòa, bất mãn, bất bình, bất nhân, bất nghĩa, bất cần đời….bao nhiêu là chữ “bất” thậm chí đưa đến những cái chết “bất đắc kỳ tử”.  Thật vậy, con người trong xã hội hiện đại ngày càng bất an, bất hòa, bất đồng nên tình yêu, hôn nhân, gia đình đổ vỡ; tỷ lệ ly hôn ngày càng gia tăng ngay ở những nước mới thoát khỏi nghèo đói như Việt Nam. Tỷ lệ ly dị ở Việt Nam đang gia tăng đến mức báo động, khoảng 30%.  Đáng lo ngại là hiện tượng mà các nhà tâm lý gọi là “ly hôn xanh”, tức là những vụ ly hôn xảy ra ở những cặp vợ chồng mới kết hôn vài ba năm, con còn quá nhỏ, mà đã kéo nhau ra tòa ly dị với những lý do chưa đáng để ly hôn như thường thấy.

Điểm qua tình hình thế giới và con người, một câu hỏi cần đặt ra là tại sao con người từ xưa đến nay không tìm thấy sự bình an thật? Mặc dù có nhiều triết lý, tôn giáo xưa nay đã bàn luận nhiều đến nan đề này, tuy nhiên, có thể nói con người không thể tìm ra câu trả lời thỏa đáng. Đúng như Isaia nói là: “Dân tộc bước đi trong u tối” (Is 9,2). Nhân loại hiện nay đang khao khát sự bình an.  Có người tưởng rằng vật chất, tiền bạc, tiện nghi khoa học, kỹ thuật sẽ đem lại hạnh phúc, bình an nhưng con người đã nhầm.

Tội làm cho con người bất an

Sách Sáng Thế ghi lại bi kịch trong vườn địa đàng khi tổ tông loài người phạm tội bất tuân lệnh Chúa mà ăn trái cấm (x. St 3,6). Tội lỗi đã khiến con người bối rối, sợ hãi. Dòng dõi loài người do A-đam sa ngã sinh ra lại tiếp tục ghen ghét, chém giết nhau. Bi kịch trong gia đình đầu tiên của nhân loại: Ca-in đã giết em ruột mình là A-ben vì ganh tị (x. St 4,8). Lịch sử nhân loại cũng từ đó trở thành lịch sử của chiến tranh. Hòa bình chỉ là sự ngưng nghỉ của chiến tranh mà thôi. Đúng như Isaia nói: “Những kẻ ác chẳng hưởng sự bình an bao giờ” (Is 48,22).

Hài Nhi giáng sinh và Vua Hòa Bình

Isaia loan báo một tin vui toàn thế. Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết… Một hài nhi đã sinh ra cho chúng tôi… Người là “Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa huy hoàn, Người Cha Muôn Thủa, Ông Vua Thái Bình” (Is 9,1.5).

Chúng ta phải khẳng định rằng: trong thời đại hiện hôm nay, con người có lẽ cần đến Ðấng Vua Hòa Bình hơn bao giờ hết, bởi vì xã hội trong đó con người sinh sống đã trở nên phức tạp hơn, và những hăm dọa xúc phạm đến sự toàn vẹn bản thân và luân lý. Ai có thể bênh vực con người, đem lại bình an cho con người, nếu không phải là Ðấng yêu thương loài người cho đến mức độ trao ban chính Con Một là Vua Hòa Bình cho con người.

Cuộc chiến do Nga khai mào mệnh danh là “đặc biệt” kéo dài gần một năm chưa có hồi kết cho thấy. Nhân loại đang rất cần Hòa Bình. Con người khiêm nhường cúi đầu quỳ gối xuống trước “một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2,7) là Vua Hòa Bình đem bình an cho dương thế.

“Thế Giới Đang Cần Đến Hòa Bình” là một thông điệp gửi đến tất cả mọi người trên thế giới này, giữa lúc cuộc chiến giữa Nga và Ucraina ngày khốc liệt. Thế giới nói chung, Âu Châu nói riêng bất an và dường như không còn dựa vào sức riêng của mình được nữa, thế giới đang cần Vua Hòa Bình hơn bao giờ hết. Chỉ có Vua Hòa Bình mới mang bình an và ơn cứu độ đến cho nhân loại.

Cùng với các Thiên Thần chúng ta vang lời ca hát và khẩn khoản nài xin: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời và bình an dưới thế cho người thiên tâm” (Lc 2,14).

Xin chúc tất cả Giáng Sinh an lành, thế giới được hòa bình!

3. BÌNH AN DƯỚI THẾ CHO NGƯỜI THIỆN TÂM – Linh mục Giuse Nguyễn Văn Hữu

Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm” là sứ điệp của Chúa giáng sinh làm người. Sứ điệp này là lời cầu chúc từ trời, là niềm mong mỏi quí giá và cần thiết nhất của con người.

Niềm vui và bình an của Chúa giáng sinh được ban phát trong đêm thanh vắng, giữa cánh đồng thanh vắng, trong bầu trời thanh vắng. Điều đó ngụ ý rằng niềm vui và bình an bởi trời sẽ chỉ lãnh nhận được bởi những người có tâm hồn thanh tịnh.

Trong đêm khuya thanh vắng, niềm an vui từ trời gởi xuống sẽ được đón nhận bởi những tâm hồn hướng thiện. Hướng thiện là hướng về Chúa, Đấng là nguồn cội của Chân- Thiện -Mỹ, và là Đấng sáng tạo vũ trụ vạn vật.

Muốn hướng về Chúa, thì phải sạch tội, nghĩa là không còn vướng mắc tội lỗi và những đam mê tật xấu.

Tâm không thiện, lòng không ngay, con người không bao giờ được an vui đích thật. Dù có an vui đi chăng nữa, thì cũng chỉ là niềm an vui giả tạo, niềm an vui của kẻ cơ hội và tội lỗi coi lễ Giáng Sinh là dịp để tụ tập ăn chơi đàng điếm, phóng túng… Có biết bao nhà hàng, quán xá, vũ trường, khách sạn… đón Giáng sinh rất hoành tráng, đèn hoa rực rỡ… nhưng chẳng phải mừng Chúa giáng sinh cứu đời mà là thương mại hoá, kinh doanh kiếm lời. Chính vì những ham hố lợi nhuận ấy, mà người ta sẵn sàng tạo mọi điều kiện, mở các dịch vụ, tận dụng các kỹ nghệ, để phục vụ tất cả những đam mê của con người, kể cả những đam mê xấu xa đê hèn nhất. Tệ hại và đau lòng hơn cả là mọi hình thức tội lỗi ấy lại xảy ra vào đêm Chúa giáng sinh, đêm mà ai cũng coi là linh thiêng: “Đêm thánh vô cùng”.

Vâng, đêm Giáng Sinh chắc chắn sẽ có rất nhiều người đổ ra đường… Trong dòng người ấy, chắc chắn không thiếu những đôi trai gái, những bạn trẻ, những người trung niên, những người lắm tiền nhiều của và cả những người có địa vị trong xã hội… đã móc hầu bao, để ném tiền vào những nơi tội lỗi, lao mình vào vòng tay của bóng tối, mà lẽ ra cần phải xa lánh. Và có khi đồng tiền họ sử dụng trong đêm Giáng sinh lại là những đồng tiền bất chính, làm ăn phi pháp, bóc lột xương máu và nước mắt của bao người lam lũ khổ đau…để biến bao nhiêu thân xác con người, nhất là các cô gái trẻ, các em bé… thành những món hàng, thứ đồ chơi mua vui. Đó là chưa kể đến những chàng trai cô gái muốn trở thành anh hùng xa lộ… lao vào những vòng đua nguy hiểm đe doạ chính sự sống của mình và của người dân vô tội khác.

Ngược với niềm vui bất chính và tội lỗi trên. Niềm an vui của đêm Giáng sinh mà Chúa mang đến là niềm vui có Thiên Chúa ở cùng. Đó là niềm vui miên man, chứa chan và thánh thiện dành cho tất cả những tâm hồn biết đón nhận Đấng ‘Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta’. Đó không chỉ là niềm vui đúng đắn mà còn là niềm vui cao sang, trang trọng, tràn đầy sức sống. Niềm vui mà chính thiên thần Chúa đã gọi tên là ‘Tin mừng trọng đại’, là ‘vinh danh Thiên Chúa’.

Niềm an vui có ‘Thiên Chúa ở cùng’ không chỉ là niềm vui phổ quát được trao ban cho tất cả những người thành tâm thiện chí mà còn là niềm vui có tính cách hết sức cá vị dành cho những con người cụ thể như Giuse, Maria, các mục đồng và các nhà đạo sĩ… Họ là những con người, những cá nhân, đã sẵn sàng mở rộng lòng đón nhận Đấng Emmanuel, đến cư ngụ trong tâm lòng và gia đình mình. Dù phải đối diện với bao khó khăn trắc trở, nhưng một khi nhận được tiếng Chúa mời gọi lên đường, họ đã sẵn sàng ra đi theo sự hướng dẫn của Chúa.

Trên đường đến hang đá Bêlem theo lời loan báo của các thiên thần, các mục đồng chỉ để ý đến ‘Hài Nhi Giêsu bọc trong tã đặt nằm trên máng cỏ’, chứ không để ý đến một mục tiêu nào khác. Khi đến nơi, các mục đồng cũng chỉ để ý đến Hài Nhi Giêsu như là trung tâm và đích điểm chuyến đi của mình. Gặp thấy Chúa Hài Nhi, các mục đồng tin rằng Ngài chính là ‘Tin Mừng cho toàn dân’ và là Đấng Cứu Độ mà họ đang mong đợi.

Thiện tâm của các mục đồng là như vậy. Ta hãy coi đó là mẫu gương thiện tậm. Nếu ta biết điều chỉnh tâm lòng, để luôn hướng về Chúa Giêsu và đặt ngài làm trung tâm mọi sự thiện của đời ta, thì ta sẽ đạt được niềm vui đích thực trong cuộc sống.

Ước mong rằng tất cả mọi người khi mừng lễ Giáng Sinh với lòng thành tâm thiện chí đều xứng đáng lãnh nhận niềm vui và sự bình an của Chúa Giêsu Hài Đồng. Amen.

4. Bài Giảng của ĐTC Phanxicô Trong Thánh lễ đêm Giáng Sinh – Minh Đức chuyển ngữ

Thánh lễ Đêm Giáng sinh 24-12-2015 được Đức Thánh Cha Phanxicô cử hành lúc 21g30 tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô. Lễ Giáng sinh năm nay là lễ Giáng sinh của Năm Thánh Lòng Thương xót, nên Đức Thánh Cha đặc biệt nhắn nhủ các Kitô hữu hãy có lòng thương xót: “Trong một nền văn hóa vô cảm thường dẫn đến chỗ tàn nhẫn, mong sao chúng ta biết sống tinh thần đạo đức, đầy lòng vị tha, cảm thông, và thương xót, được kín múc nơi nguồn suối cầu nguyện hằng ngày”.

Sau đây là toàn văn bài giảng của Đức Thánh Cha:

***

Đêm nay, một “ánh sáng huy hoàng” đã bừng lên (Is 9,1); ánh sáng của Chúa Giêsu giáng sinh chiếu soi trên tất cả chúng ta. Lời tiên tri Isaia chúng ta vừa nghe thật đúng và hợp lúc biết bao: “Chúa đã ban cho họ chứa chan niềm hoan hỉ, đã tăng thêm nỗi vui mừng” (9, 2)! Tâm hồn chúng ta đã mừng vui khi chờ đợi giây phút này, giờ thì niềm vui ấy lại càng đầy tràn chan chứa, vì lời hứa cuối cùng đã được thực hiện. Niềm vui ấy là dấu chỉ chắc chắn rằng sứ điệp trong mầu nhiệm đêm nay thực sự từ Thiên Chúa mà đến. Không có chỗ cho sự nghi ngờ; hãy dành mối nghi ngờ cho những kẻ hoài nghi là những kẻ chỉ biết đi tìm nguyên do mà chẳng bao giờ gặp được chân lý. Không có chỗ cho sự thờ ơ đang thống trị trong tâm hồn của kẻ không thể yêu thương vì họ sợ mất đi điều gì đó. Mọi nỗi buồn đau phải tiêu tan, vì Hài nhi Giêsu mang đến niềm an ủi đích thực cho mọi tâm hồn.

Hôm nay, Con Thiên Chúa đã sinh ra: mọi sự đều thay đổi. Đấng Cứu Thế đã đến chia sẻ bản tính con người của chúng ta; chúng ta không còn cô đơn hay bị bỏ rơi nữa. Đức Trinh nữ ban tặng cho chúng ta Người Con là khởi đầu của cuộc sống mới. Ánh sáng đã đến soi chiếu cuộc đời của chúng ta, vẫn thường bị giam hãm trong bóng tối của tội lỗi. Hôm nay một lần nữa chúng ta lại khám phá để biết mình là ai! Đêm nay, chúng ta được chỉ cho biết con đường phải đi để đạt mục tiêu. Bây giờ chúng ta phải loại bỏ mọi nỗi lo lắng và khiếp sợ, vì ánh sáng đã chỉ đường cho chúng ta đến Belem. Chúng ta không được trơ lì. Chúng ta không được phép dừng lại. Chúng ta phải lên đường đi gặp Đấng Cứu Chuộc đang nằm trong máng cỏ. Đây là lý do để chúng ta vui mừng: Hài nhi này được “sinh ra cho chúng ta”, được “ban tặng cho chúng ta” như Isaia đã loan báo (x. 9,5). Dân từ hai ngàn năm qua đã rong ruổi khắp các nẻo đường thế giới để làm cho mọi người được chia sẻ niềm vui này, nay lại được trao sứ vụ làm cho mọi người nhận biết “Hoàng tử Bình an” và trở thành công cụ hữu hiệu của Người giữa các dân tộc.

Thế nên, khi nghe tường thuật về cuộc giáng sinh của Hài nhi Giêsu, chúng ta hãy thinh lặng và để cho Hài nhi nói với chúng ta. Hãy in sâu vào lòng chúng ta lời của Người và luôn chiêm ngắm dung nhan Người. Nếu chúng ta bồng ẵm Người trên tay và để cho Người ôm lấy chúng ta, Người sẽ ban tặng chúng ta sự bình an vĩnh cửu cho tâm hồn. Hài nhi ấy dạy chúng ta điều gì là chính yếu thật sự trong đời sống của chúng ta. Người sinh ra trong cảnh nghèo đói của thế giới này; không có chỗ trong quán trọ cho Người và gia đình của Người. Người trú thân trong một chuồng bò, và được đặt nằm trong máng ăn của loài vật. Nhưng, từ chốn hư không ấy, ánh sáng vinh quang của Thiên Chúa đã bừng lên. Từ nay, con đường giải thoát đích thực và ơn cứu chuộc muôn đời đã mở ra cho những con người có tấm lòng đơn sơ. Hài nhi ấy, với dung nhan rạng ngời nét từ nhân, lòng thương xót và tình yêu của Thiên Chúa Cha, đã dạy tất cả chúng ta là các môn đệ của Người, như thánh Phaolô đã nói “từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục mà sống chừng mực, công chính và đạo đức” (Tt 2,12).

Trong một xã hội đã bị tiêm nhiễm chủ nghĩa tiêu thụ và lạc thú, say mê của cải và sa hoa, ưa chuộng vẻ bên ngoài và tự mãn, Hài nhi ấy kêu gọi chúng ta phải sống tiết độ, hay nói cách khác, sống đơn giản, quân bình, kiên định, có khả năng nhìn ra và sống điều thiết yếu. Trong một thế giới đã quá thường xuyên không tỏ lòng thương xót người có tội nhưng lại dễ dãi với tội lỗi, chúng ta phải vun trồng một ý thức mạnh mẽ về công chính, phân định và thực thi ý Chúa. Trong một nền văn hóa vô cảm thường dẫn đến chỗ tàn nhẫn, mong sao chúng ta biết sống tinh thần đạo đức, đầy lòng vị tha, cảm thông, và thương xót, được kín múc nơi nguồn suối cầu nguyện hằng ngày.

Như những mục đồng ở Belem, ước gì chúng ta cũng có được đôi mắt đầy ngạc nhiên khi chiêm ngắm Hài nhi Giêsu Con Thiên Chúa. Và đứng trước Hài nhi, xin cho con tim chúng ta bật lên lời kinh nguyện: “Lạy Chúa, xin tỏ lòng thương xót và ban ơn cứu độ cho chúng con” (Tv 85,8).

5. ĐỨC GIÊSU LÀ QUÀ TẶNG VÔ GIÁ Giuse – Vinh sơn Ngọc Biển S.S.P

Cứ mỗi dịp Giáng Sinh về, người ta thường tặng cho nhau những cánh thiệp, trao cho nhau những món quà và viết những lời cầu chúc thật ý nghĩa. Kèm theo những cánh thiệp và những món quà đó, tất cả chỉ mong sao người nhận quà gặp được nhiều niềm vui, bình an, hạnh phúc và thành đạt.

Đêm nay, chúng ta tụ họp nơi đây để mừng Đêm Thánh, Đêm kỷ niệm Con Thiên Chúa Giáng Sinh và cư ngụ giữa chúng ta trong thân phận của một con người bình thường (x. Ga 1, 14; Dt 4, 15). Đây là món quà cao quý mà Thiên Chúa Cha đã trao tặng cho nhân loại. Thật vậy, Chúa Giêsu Giáng Sinh đã trở thành niềm vui cho toàn thể thế giới, là nguồn bình an mà muôn dân mong ngóng đợi trông, là Đấng đem lại cho con người hạnh phúc thật.

Lời Chúa trong bài đọc I gợi lại cho chúng ta thấy bối cảnh lịch sử của dân tộc Israel thời bấy giờ. Lúc ấy, họ bị lưu đầy vì quân đội Assyria xâm chiếm và bắt họ phải đi biệt xứ. Khi sống trong cảnh lưu vong như thế, họ nghĩ đến thân phận của mình như là “dân tộc bước đi trong u tối“, chốn lưu đày đối với họ chính là “miền thâm u của sự chết”, những khổ nhục họ phải chịu là “cái ách nặng nề đè trên người, cái gông nằm trên vai ...” Tuy nhiên, cái đêm âm u cũng như miền thâm u sự chết, những cái ách và cái gông nặng nề đang đè lên trên họ đã được tiên tri Isaia gỡ bỏ khi loan báo về một trời mới, đất mới và họ sẽ được giải thoát: “Dân tộc bước đi trong u tối sẽ nhìn thấy sự sáng chứa chan“, miền thâm u sự chết đó sẽ khơi nguồn sự sống, những gông, ách và roi vọt bị bẻ gãy… và được thay vào đó là cái ách của tình thương, lòng bao dung… Bởi vì “một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng ta, một Người Con đã được ban cho chúng ta, Hài Nhi sẽ tiếp nhận quyền bính trên vai và thiên hạ sẽ gọi tên Người là Cố Vấn kỳ diệu” (Is 9,6). Tiên tri Isaia nhấn mạnh hơn khi nói: “Đây là lời Đức Chúa loan truyền cho khắp cùng cõi đất: Hãy nói với thiếu nữ Sion: Kìa ơn cứu độ ngươi đang tới” (Is 62,11). Cũng vậy, tiên tri Mikha, sống đồng thời với Isaia, đã thốt lên những lời đầy an ủi: “Hỡi Belem, nhỏ bé trong đất Giuđa, song từ nơi ngươi sẽ xuất hiện Đấng cai trị Israel, nguồn gốc Ngài có từ xa xưa, từ trước muôn đời, Ngài sẽ cai trị với sức mạnh của Chúa Giavê… Chính Ngài sẽ đem lại cảnh thái bình” (Mk 5,1-4).

Tuy nhiên, để hiểu sâu xa lời tiên báo của tiên tri Isaia và Mikha cho dân Israel, chúng ta hãy đặt mình vào trong bối cảnh lịch sử của dân Israel đang bị cảnh lưu đầy tha phương, nỗi khổ tột cùng của thân phận nô lệ…, thì mới hiểu được thế nào là sự chờ mong da diết, khôn nguôi Đấng sẽ đến giải thoát mình! Trong khi chờ đợi như thế, những thử thách, tủi nhục, đắng cay đã làm cho họ chịu không nổi, nên đã thốt lên: “Bên bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Xion; trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn”.

Bởi vì: “Bọn lính canh đòi ta hát xướng, lũ cướp này mời gượng vui lên: Hát đi, hát thử đi xem, Xion nhạc thánh điệu quen một bài!” (x. Tv 137 (136), 1-3a. 4).

Nỗi đau khổ của dân Israel đã thấu tới Trời Cao, đã đụng chạm đến lòng trắc ẩn của Thiên Chúa, vì thế Người đã trao ban Con Một của mình xuống để cứu độ nhân loại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Qua mầu nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh, Thiên Chúa đã xuống thế và trở nên con người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Từ nay, Ngài là Đấng Emmanuel mà bao đời và muôn dân mong đợi.

Vì thế, Đên nay là: Đêm Hồng Ân; Đêm tình thương cứu thế; Đêm chan hòa Ánh Sáng; Đêm giao hòa giữa Trời và đất; Đêm khơi nguồn Bình An; Đêm mà Thiên Chúa và con người gặp nhau; Đêm Thiên Chúa trở thành người, để con người được phục hồi nhân vị trong tư cách là con và được gọi Người bằng Áp Ba- Cha ơi, vì thế, “… anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế” (Gl 4, 4-7).

Đứng trước hồng ân cao trọng này, chúng ta không thể không cất cao bài ca: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu! Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người” (Tv 96, 1-3).

Khi mừng lễ Giáng Sinh với tâm tình như vậy, mỗi người chúng ta hãy khám phá ra “Đức Giêsu là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người” (x.Ga 3,16; Is 9,5). Lời của Thiên Sứ báo tin cho các mục đồng chứng tỏ điều đó: “Này, tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em” (Lc 2, 10-11).

Mặt khác, chúng ta không chỉ trầm trồ khen ngợi, hay tạ ơn, mà còn là mở rộng tâm hồn để đón Chúa Giáng Sinh nơi tâm hồn và trong trái tim của chúng ta. Bởi vì giá trị đích thực của niềm vui giáng sinh là gì, nếu không phải là để cho Hài Nhi Giêsu lớn lên trong cung lòng của mỗi người!

Đức Giêsu, trong đêm Giáng Sinh, Ngài đã hoàn tất một chặng đường dài qua việc nhập thể và đi vào thế giới nhằm tìm gặp con người. Vì thế, Ngài đã trở thành người cha, người thầy, người bạn và người anh để cùng sống, cùng ăn, cùng đi với con người trong hành trình lữ thứ trần gian qua việc giảng dạy và nơi những nghĩa cử yêu thương. Ngài vẫn còn tiếp tục như thế cho đến ngày tận cùng của nhân loại qua Bí tích Thánh Thể. Nơi Bí Tích cực thánh này, Ngài đã trở thành “Bánh bởi trời”; “Bánh hằng sống”;“Lương thực thần linh” để nuôi dưỡng nhân loại và để cho những ai đón nhận được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,10).

Noi gương Đức Giêsu, và để cho Ngài sống cũng như lớn lên trong tâm hồn chúng ta, mỗi người hãy trở nên quà tặng cho tha nhân qua một cử chỉ chân thành, một hành động ý nghĩa, một nụ cười thân thiện, một nghĩa cử cảm thông phát xuất từ niềm tin và lòng thương xót…

Đây có lẽ là món quà quý giá nhất mà Hài Nhi Giêsu vui mừng đón nhận, bởi lẽ: “Xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm” vì “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (x. Mt 25, 35- 45). Và, như bánh Thánh Thể, được bẻ ra, trao ban cho nhân loại thế nào, thì chúng ta cũng hãy mở rộng bàn tay và tấm lòng sẵn sàng chia sẻ cho những ai cần chúng ta giúp đỡ như vậy.

Ước gì, khi chúng ta đón nhận được món quà vô giá từ nơi Thiên Chúa qua hiện thân của Đức Giêsu, thì đến lượt chúng ta, mỗi người cũng hãy chia sẻ ân huệ đó cho người khác, nhờ đó, tất cả chúng ta sẽ được hưởng niềm vui trọn vẹn của Đại lễ Giáng Sinh đêm nay. Amen.

II. LỄ RẠNG ĐÔNG

1. CHÚA GIÊ-SU LÀ ÁNH SÁNG CHIẾU SOI MUÔN DÂN – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Cách đây bốn mươi ngày, chúng ta đã hân hoan cử hành lễ Chúa Cứu Thế giáng sinh. Hôm nay chúng ta mừng ngày Chúa Cứu Thế được Thân Mẫu và thánh Giuse dâng vào Đền Thánh, đưa chúng ta đi từ Mầu Nhiệm Nhập Thể đến Mầu Nhiệm Cứu Chuộc của Đấng Cứu Thế. Ngôi Lời, Con Thiên Chúa nhập thể làm người, sinh ra và sống trong xã hội loài người, bị luật lệ loài người chi phối, theo Luật Môisen (x. Xh 13, 11-13); “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa” ( Lc 2, 23 ) đó là lý do Hài Nhi Giêsu được dâng cho Thiên Chúa. Đức Trinh Nữ Maria đã tuân theo nghi lễ thanh tẩy được ghi trong sách Lêvi : “Luật cho phụ nữ sinh trai hay gái” (Lv 12, 6-8). Ông Symêon người công chính và mộ đạo, được Thánh Thần linh báo cho biết, ông sẽ không thấy cái chết trước khi gặp Đức Kitô. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền, được Thần Khí thúc đẩy, hôm đó ông lên Đền Thánh, gặp gỡ Hài Nhi trên tay, ẵm trên tay và chào là ” Ánh Sáng muôn dân ” (Lc 2, 32).

Trong ngày này, Giáo hội ca vang “Vui lên, hỡi Đức Trinh Nữ Mẹ Chúa Trời, Đấng đầy ân sủng, vì từ lòng Mẹ đã sinh ra Đức Kitô Chúa chúng con là Mặt Trời công chính, Ánh Sáng chiếu soi những ai ngồi trong bóng tối. Vui lên, hỡi cụ Symêon, người công chính, vì chính cụ đã bồng ẵm Đấng giải thoát muôn dân, cho muôn dân tham dự vào sự Phục sinh của Người “(x. Phụng vụ Byzantine).

Tại sao Con Thiên Chúa lại phải dâng cho Thiên Chúa và Đức Maria trinh khiết vẹn tuyền phải chịu thanh tẩy?

Theo thánh Dimitri de Rostov: “Mẹ Thiên Chúa tiến vào Đền Thánh vâng theo Luật Chúa, tay bồng ẵm chính Đấng là Lề Luật. Mẹ là Đấng vô tội, tinh tuyền không tì vết đến xin điều mà Mẹ không cần là thanh tẩy. Mẹ không nhận lãnh sự khoái lạc sung sướng của phu quân, đã sinh con mà không đau đớn, Mẹ được gìn giữ tinh tuyền không tì vết trước khi sinh và sau khi sinh Đấng là nguồn suối trong sạch, há Mẹ lại không tinh sạch sao? Đức Kitô đã sinh ra từ lòng Mẹ! Quả không bị hư hoại bởi cây, cây không bị nhơ bẩn bởi quả : Đức Trinh Nữ Rất Thánh vẫn trinh khiết vẹn tuyền sau khi sinh hạ Đức Kitô, Con lòng Mẹ. Mặt Trời công chính không làm tổn thương sự đồng trinh của Mẹ. Lẽ thường, máu không làm ô uế Cửa thiên đàng theo luật tự nhiên, Thiên Chúa ngập tràn ánh sáng thần linh đã vượt qua Cửa này, gìn giữ sự đồng trinh của Mẹ”.

Thánh Phaolô nói: “Vậy bởi vì con cái có chung máu thịt với nhau, thì phần Ngài, giống y như vậy, các điều ấy Ngài cũng đã thông chia, để giải thoát những kẻ vì sợ chết mà suốt cả bình sinh sa vòng nô lệ” (Dt 2,14-15). Chúa đến với loài người là để cứu rỗi và giải thoát, chứ không phải để kết án luận phạt: ” Vì thiết tưởng không phải Thiên Thần được Ngài bao bọc, nhưng Ngài bao bọc dòng giống Abraham…Ngài đã nên giống các anh em Ngài, để trở thành vị Thượng tế lo việc Thiên Chúa, vừa biết xót thương vừa trung tín, cốt để lo tạ tội cho dân” (Dt 2,16-17).

Đức Maria Trinh Nữ Rất Thánh Mẹ Thiên Chúa, cũng như Chúa Giêsu không buộc phải tuân theo nghi thức này, nhưng vì khiêm nhường và cũng để cho nhân loại noi theo mà tuân giữ luật Chúa, nhất là để cứu con người Chúa Giêsu đã làm điều đó, nên lễ này được gọi là Lễ Thanh Tẩy.

Hy Tế Cứu Chuộc

Lễ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh, mà chúng ta cử hành ngày 02 tháng 02 có một vị trí đặc biệt: vì lễ này loan báo Hy Tế Cứu Chuộc mang lại ơn cứu độ sau này. Đức Maria và thánh Giuse bồng Chúa Giêsu trên tay, dù là Con Thiên Chúa, Đấng giầu sang phú quí để dâng vào Đền Thánh với của lễ đơn sơ là “cặp bồ câu non”! Đây là lần đầu tiên loan báo về Hy Tế Thánh. Chính Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người mạc khải cho chúng ta, việc dâng hiến này ám chỉ tương quan giữa nhân loại với Thiên Chúa Cha, qua trung gian cần thiết của Đức Trinh Nữ Maria đồng công cứu chuộc. Đây là Hy Tế đền tội hoàn hảo duy nhất cứu chuộc nhân loại. Lễ này là “bản lề” chuyển tiếp giữa hai mầu nhiệm Nhập Thể (Truyền tin) và Cứu Chuộc (Phục Sinh). Chúa Giêsu đến trần gian (Nhập thể), để (Cứu chuộc) chúng ta.

Sao lại làm phép nến và rước nến hay gọi là Lễ Nến?

Giáo hội Đông phương hiểu Thánh lễ này thể hiện cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và dân Người. Được Ðức Maria và thánh Giuse đem vào Ðền Thánh, Chúa Giêsu đã gặp gỡ dân người mà hai cụ già Symêon và Anna là đại diện. Ðây cũng là cuộc gặp gỡ lịch sử của dân Chúa, gặp gỡ giữa các người trẻ là Ðức Marria và thánh Giuse và các người già là Symêon và Anna. Chúa Giêsu là trung tâm, chính Người lôi kéo con người đến Ðền Thánh, nhà Cha Người. Ðây còn là cuộc gặp gỡ giữa sự vâng phục của người trẻ và lời tiên tri của người già. Việc tuân giữ Luật được chính Thần Khí linh hoạt, và lời tiên tri di chuyển trên con đường do Luật vạch ra.

Giáo hội Tây phương lại coi đây là Thánh lễ mừng kính Đức Maria: Thanh tẩy theo luật Do thái. Khi sát nhập vào Phụng vụ Rôma, Đức Giáo Hoàng Sergiô I (678-701) lại thêm vào nghi thức rước nến. Vì thế, từ đây, lễ này được gọi là Lễ Nến. Vì trước Thánh lễ có nghi thức làm phép nến và kiệu nến vào nhà thờ như cuộc đón rước Chúa Giêsu là Ánh Sáng của muôn dân. Những cây nến được làm phép và thắp sáng trong ngày lễ này, tượng trưng cho ánh sáng và vinh quang của Chúa Giêsu. Từ cuộc canh tân Phụng vụ năm 1960, thánh lễ này cũng qui hướng về Chúa Giêsu, hơn là Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ.

Lời của cụ già Symêon nói : “Đó là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân” (Lc 2, 32). Quả thật, hôm nay ai trong chúng ta cầm nến sáng trong tay mà không nhớ tới ngày cụ già Symêon bồng ẵm Hài Nhi Giêsu, Ngôi Lời trong xác phàm, là Ánh Sáng. Chính cụ là ngọn lửa cháy sáng, chứng nhân của ánh sáng, khi được đầy ơn Chúa Thánh Thần, cụ đã làm chứng rằng Hài Nhi Giêsu là Tình Yêu và là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân.

Vậy hôm nay, chúng ta hãy nhìn cây nến cháy sáng tên tay cụ già Symêon, từ ánh sáng đó hãy thắp sáng cây nến của chúng ta…Như thế, chúng ta không những sẽ cầm ánh sáng trong tay, mà chính chúng ta là ánh sáng, ánh sáng trong lòng ta, cho đời ta, và cho mọi người. Amen.

2. ĐÓN CHÚA GIÁNG SINH VỚI TÂM TÌNH NÀO? – Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.

Có lẽ sự nhộn nhịp của thánh lễ đêm hôm qua đã làm cho nhiều người cảm thấy rộn ràng, vui tươi và hạnh phúc. Nhưng bên cạnh đó cũng không thiếu những người cảm thấy mệt mỏi sau một đêm dài với biết bao nhiêu calo phải bỏ ra nơi những cuộc vui chơi, ăn nhậu và nhiều khi trụy lạc nơi những quán bar, nhà nghỉ…

Còn thánh lễ Giáng Sinh vào rạng sáng hôm nay, vẫn quen gọi là thánh lễ Rạng Đông thì lại là một thánh lễ rất êm đềm, không ồn ào, không náo nhiệt, không ca nhạc, kịch nghệ, chẳng có chương trình vui chơi giải trí gì…!

Đối tượng dự lễ cũng chỉ còn lại đa số là những cụ già, hay những người lớn tuổi hoặc một số bạn trẻ đạo đức mà thôi… còn lại, mọi người đang chìm trong giấc ngủ sâu!

Tuy nhiên, trong bầu không khí tưởng chừng như tĩnh lặng này, Giáo Hội lại cho chúng ta nghe bài Tin Mừng do thánh Luca trình thuật nói về việc các mục đồng hối hả đi tìm, thờ lạy và loan truyền về Hài Nhi Giêsu cho người khác. Điều này gợi cho chúng ta rất nhiều suy nghĩ?

Các mục đồng đi tìm Chúa như thế nào?

Nào chúng ta sang Bêlem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết” (Lc 2, 15).

Đây là lời của các mục đồng nói với nhau sau khi đã được các thiên sứ báo tin cho biết Đấng Cứu Thế đã giáng sinh trong thành Belem.

Thánh sử Luca cho biết thêm: “Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2, 16).

Như vậy, thánh lễ Rạng Đông của ngày Giáng Sinh giờ này có thể được gọi là lễ Chúa tỏ mình ra cho các mục đồng.

Tại sao Chúa lại không tỏ ra cho những người quyền cao chức trọng, giàu có hay những nhà lãnh đạo tôn giáo, mà lại tỏ ra cho các mục đồng là những người nghèo, đơn sơ chất phát, thấp cổ bé họng…

Thưa đơn giản, bởi vì nơi các mục đồng có điểm tương giao với Hài Nhi Giêsu.

Thật vậy, khi Con Thiên Chúa hạ sinh nơi cánh đồng Belem chốn bò lừa thanh vắng, quạnh hưu và nghèo khó như vậy, phải chăng Đức Giêsu đã phá cách để làm toát lên bản chất của Thiên Chúa là tình yêu khi không cần đến sự giàu sang của con người, nhưng Ngài muốn một sự gần gũi. Không cần đến cái bề ngoài, mà là sự thiêng thánh, chân thành và đơn sơ.

Đây chính là câu trả lời cho chúng ta biết tại sao các mục đồng và Hài Nhi Giêsu lại “Đồng thanh tương ứng”, và họ lại là người đầu tiên được diễm phúc chứng kiến Mầu Nhiệm Con Thiên Chúa Giáng Sinh.

Sự đồng cảm này đã làm cho tâm hồn các mục đồng có một ngọn lửa yêu mến đến tha thiết, nên họ đã tỏ ra rất nhạy bén và tinh tế với những gì đã được các thiên sứ loan báo cho họ. Vì thế, giữa đêm tối âm u lạnh lẽo, họ đã đốt đuốc và hối hả ra đi để mong cho được sớm gặp thấy Hài Nhi mới sinh. Khi gặp thấy “Em Bé sơ sinh bọc tả nằm trong máng cỏ”, họ đã tin và nhận ra đó chính là: “Đấng Cứu Độ, là Đấng Kitô, là Đức Chúa” như thiên sứ đã báo.

Cũng trong tâm tình ấy, họ đã nghiệm được ra tình thương bao la của Thiên Chúa dành cho mình và nhân loại mà chính họ là những người đầu tiên được tận hưởng ân lộc lớn lao đó, vì thế, sau khi đã ra về, họ luôn kể về những gì đã thấy cho anh em mình.

Con người hôm nay mừng lễ Giáng Sinh như thế nào?

Trên đây là tâm tình mừng Chúa Giáng Sinh của các mục đồng Belem, còn nhân loại và con người hôm nay mỗi khi lễ Giáng Sinh về, chúng ta đi tìm gì và đến với Chúa bằng tấm lòng nào?

Thực trạng thật cho thấy một sự trái ngược đến rõ nét giữa tâm tình và thái độ của các mục đồng thời xưa và con người ngày nay. Vì thế, chúng ta không lạ gì khi những ngày trước lễ Giáng Sinh, nhiều người ưu tiên lo lắng cho những chuyện như: Giáng Sinh sắp đến rồi, chúng ta đã có tiền để mua đèn hoa trang trí chưa? Giáng Sinh năm nay chúng ta ăn gì, nhậu gì? Liệu có kiếm được món nào “độc” để đãi khách không?

Rồi đến chính đêm Giáng Sinh, nhiều người chủ yếu đi xem ca nhạc kịch, hay đèn hoa rực rỡ nơi các nhà thờ, khu phố…

Lựa chọn ưu tiên và hành động như thế, người ta đã biến lễ Giáng Sinh trở thành thời điểm mua sắm, ăn chơi hay như một lễ hội thuần túy!

Tuy nhiên, điều mà con người tưởng chừng như đem lại cho mình hạnh phúc, thì trên thực tế, hạnh phúc, niềm vui và bình an đích thực lại quá xa vời đối với họ, bởi lẽ những thứ họ tìm chính là những điều hoang tưởng hoặc chỉ là điều phụ thuộc bên ngoài.

Thật vậy, vui mừng sao được khi trong tâm không có sự chân thành. Hạnh phúc sao được khi sâu thẳm tâm hồn vẫn còn đó sự giận hơn chia rẽ. Bình an sao được khi trong tâm không có sự thánh thiện và đơn sơ!

Thiết nghĩ, khi mừng lễ Giáng Sinh với những thứ hình thức bề ngoài như vậy, chắc chắn họ sẽ không thể nào cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa dành cho mình và nhân loại. Và lẽ đương nhiên, họ không thể nào tin Chúa với một đức tin sống động như các mục đồng khi xưa, và lẽ tất yếu, không thể loan báo về Ngài cho người khác trong khi tâm hồn trống rỗng và hoang vu như vậy được.

Lời mời gọi của Giáo Hội

Mỗi lần lễ Giáng Sinh về, Giáo Hội không ngừng mời gọi con cái mình hãy noi gương các mục đồng khi xưa để tìm gặp, yêu mến, tôn thờ và loan báo về Chúa cho người khác.

Nếu xưa kia, các mục đồng đã khao khát, hối hả lên đường, tới nơi họ gặp Hài Nhi Giêsu và đã sấp mình thờ lạy, đồng thời khi ra về, họ kể lại cho những người khác được biết về những gì đã thấy trong niềm tin sâu sắc.

Thì sứ điệp ngày lễ hôm nay cũng gửi đến cho mỗi người chúng ta là: hãy để mầu nhiệm tình yêu Giáng Sinh của Chúa đụng chạm đến tận sâu thẳm tâm hồn. Hãy biết yêu mến, khát khao và tin thờ Chúa, vì chỉ có Ngài là đường, là sự thật, là sự sống, nguồn cội của niềm vui, bình an và hạnh phúc. Đồng thời, hãy cảm nghiệm và ra đi loan báo về tình thương của Mầu Nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh cho anh chị em chưa biết Chúa.

Thứ đến, cần phải có một tâm hồn đơn sơ, chân thành, khó nghèo. Ngôi Hai Thiên Chúa đã chấp nhận trở nên nghèo hèn để cho chúng ta được nên giàu có. Ngài cũng chấp nhận cúi xuống để tôn vinh con người bằng sự nhập thể của Ngài. Vì thế, Thiên Chúa đã coi trọng đến tuyệt đối nhân phẩm và nhân vị của từng người, nhất là người nghèo. Thế nên, dù trong hoàn cảnh, môi trường nào, đời sống và cung cách của những Kitô hữu không thể trở thành người xa lạ, vô cảm, dửng dưng với một trái tim hóa đá đối với những anh chị em kém may mắn hơn mình.

Chỉ khi nào chúng ta có được tâm tình liên đới, yêu thương và huynh đệ với nhau, chúng ta mới thực sự hạnh phúc và bình an để cảm nghiệm và hát lên bài ca mà các sứ thần đã cất lên trong đêm Con Thiên Chúa Giáng Sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”.

Vẫn một tâm hồn đơn sơ, thánh thiện, nghèo khó và xác tín mạnh mẽ như các mục đồng khi xưa, giờ đây, chúng ta tiếp tục dâng thánh lễ, để chỉ lát nữa thôi, mỗi người cũng sẽ được đón nhận chính Chúa Hài Nhi Giêsu trong Bí tích Thánh Thể vào trong tâm hồn của mình, để Ngài trở thành nguồn suối bình an, vui tươi và hạnh phúc cho chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, xin Chúa ban cho chúng con biết sống đơn sơ, trong trắng như các mục đồng khi xưa, để tâm hồn chúng con được diễm phúc đón Chúa đến viếng thăm và ở lại với chúng con. Amen.

3. TÔI BIẾT GÌ VỀ CHÚA GIÁNG SINH?   – Lm Gioan Ty SDB

Đêm qua tôi đã long trọng cử hành lễ Giáng Sinh, thế nhưng tôi biết gì về ngày lễ đó?

– Biết nhiều lắm chứ! Tác giả Luca đã tường thuật khá rành rẽ; rồi hang đá các kiểu, hoạt cảnh hoành tráng bao lần tôi đã từng tổ chức hoặc dự khán… Chắc chắn là tôi biết gần như thuộc lòng sự kiện Chúa Giáng Sinh. Thế nhưng nếu phải kể cho một ai đó chưa biết gì về cái đêm ấy thì tôi sẽ nói gì đây? Cứ đặt mình vào trường hợp các mục đồng: ‘Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên’. Thế nhưng họ đâu chỉ kể về các điều họ đã được mục kích tại Bê-lem, vì tự nó chẳng có gì hấp dẫn cả: ‘họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ…’ Tuy nhiên ‘Ai nấy đều ngạc nhiên’ vì… ‘họ kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này’. Dầu rất đơn sơ chất phát, họ cũng đã biết vượt qua các sự kiện bên ngoài để nhận ra điều Chúa thật sự muốn cho họ biết. “Nào chúng ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ ra cho ta biếtVà điều tỏ ra đó quả thật là vô cùng trọng đại, vì nó liên quan tới hết thảy mọi người, tới toàn thể nhân loại: “Tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay một Đấng Cứu Độ đã sinh ra!”  các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa’ vì đã được diễm phúc nhận biết: “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.

Thế thì khi nói về Chúa Giáng Sinh tôi không thể không đề cập tới một Đấng Cứu Độ, một Thiên Chúa đầy lòng thương xót và từ nhân, một Thiên Chúa tha thứ và cứu vớt. Việc ‘một trẻ sơ sinh bọc trong tã, nằm trong máng cỏ’, cho dầu bên ngoài có vẻ tầm thường, nhưng lại là một dấu chỉ không thể sai lầm để nhận ra ‘cái thứ’ Thiên Chúa đó. Dấu đó quả thực là tài tình và hữu hiệu: thương xót từ nhân phải đi đôi với đơn sơ thấp hèn, tha thứ cứu vớt phải thật gần gũi và bình dị. Tự thâm tâm mình, đôi lúc tôi cũng có cảm giác khó chịu về cái thấp kém và nghèo nàn của hang Bê-lem. Chẳng vậy mà, ngay tại chính máng cỏ thấp hèn xưa nơi Hài Nhi đã từng nằm, khách hành hương vẫn muốn nhìn thấy một ngôi sao bạc lấp lánh trên nền cẩm thạch quí giá… để làm cho nó thêm tôn nghiêm trang trọng là gì! Nghèo hèn chỉ là gượng ép, hoặc cùng lắm là lãng mạng đối với một Đấng Thiên Chúa cao sang, nhưng lại thật tự nhiên và xứng hợp đối với Thiên Chúa đầy từ nhân và hay thương xót. Các mục đồng đơn sơ chất phác dễ dàng nhận ra điều này, trong khi các bậc quyền quí lại không. ‘Họ ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ’.

Tới trước hang Bê-lem ngay cả các tín hữu cũng được phân làm hai nhóm: nhóm một gồm những người chỉ muốn nhìn thấy một Thiên Chúa vinh quang, tạm ẩn dấu trong hình hài bé thơ, nhưng đòi phải được thờ lạy kính tôn cách trọng vọng, còn nhóm thứ hai sẽ gồm những ai nhìn vào ‘trẻ sơ sinh… nằm trong máng cỏ’ để nhận ra lòng từ nhân vô hạn của Thiên Chúa cứu độ, và do đó sẽ mừng vui hớn hở ca tụng Người trong chính sự thấp hèn nhỏ bé của Hài Nhi. Maria, Giu-se và các mục đồng thuộc nhóm thứ hai này, như Luca đã muốn mô tả họ như thế. Như vậy điểu mà Thánh Sử Gioan đã từng khẳng định: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà không nhận biết Người” không chỉ mang ý nghĩa luân lý của hai hạng người tốt xấu, nhưng còn chứa đựng một nội dung Tin Mừng hơn nhiều: nhận biết hay không nhận biết lòng thương xót từ nhân của Thiên Chúa, được thể hiện nơi ‘Ngôi Lời mặc lấy xác phàm’. Nếu Người đến trong vinh quang huy hoàng của công lý và quyền uy có lẽ người ta sẽ dễ đón tiếp hơn trong suy tôn và kính sợ, đàng này người lại chọn đến trong nghèo hèn của nhân từ và tha thứ, và thế là người ta dễ coi thường, quên lãng. Sau này chính đức Giê-su đã phải thốt lên: “Con xin ngợi khen Cha, vì đã dấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn” (Lc 10:21). Phải đúng như thế, những người thông thái khôn ngoan ưa nhìn xem những gì là hợp lý, và nhận ra ngay Thiên Chúa trong sự vinh quang cao cả; còn kẻ bé mọn, nhất là tội lỗi thấp hèn, mới dễ cảm nhận lòng từ ái của Thiên Chúa cứu độ. Họ là những người gần gũi và thoải mái với ‘trẻ sơ sinh nằm trong máng cỏ’ hơn.

“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó!” (Mt 5:3). Vậy thì tôi thuộc nhóm nào?

Lạy Hài Nhi Giê-su nằm trong máng cỏ, mỗi khi con chiêm ngắm ‘Ngôi Lời đã trở nên người phàm’, xin cho con có khả năng được ‘nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho Người,’ thứ vinh quang mà chỉ những con người bé mọn mới được mạc khải cho biết. Xin cho con biết, như Mẹ Maria tại Bê-lem, ‘suy đi nghĩ lại trong lòng’ về tình yêu thương xót và lòng nhân ái vô biên của Thiên Chúa qua hình ảnh ‘trẻ sơ sinh bọc trong tã, nằm trong máng cỏ’, để trong mừng vui và bình an, con cũng có thể chân thành cất lên bài ca ‘Ngợi khen – Magnificat’. A-men

III. LỄ BAN NGÀY (Ga 1,1-18)

1. LỜI NGỎ CỦA TÌNH YÊU –  ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Thánh Gioan Tông Đồ định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu”. Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu của Ngài bằng nhiều cách dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhưng Thiên Chúa với hình ảnh ta khó thấy được và nhiều khi không nhận ra những công trình tình yêu của Ngài. Yêu nhiều rồi cũng có lúc phải nói ra. Thiên Chúa quá yêu thương con người nên sau cùng đã gửi Con Một của Ngài xuống trần để tỏ cho ta biết tình yêu Thiên Chúa. Con Một Thiên Chúa chính là Lời của Chúa ngỏ với nhân loại. Vì thế ta hãy vào hang đá Bêlem để lắng nghe được Lời Chúa nói với ta. Chúa Giêsu bé thơ không nói bằng âm thanh vật lý, nhưng Ngài nói bằng âm thanh của trái tim. Lời của Ngài là lời của tình yêu. Qua bản thân Ngài, qua ánh mắt Ngài, qua khung cảnh hang đá, ta sẽ nghe được tiếng thì thầm của Thiên Chúa. Tiếng thì thầm đó là tiếng nói của tình yêu dưới nhiều sắc mầu khác nhau.

Đó là tiếng nói của tình yêu dâng hiến. Bêlem theo tiếng Do Thái có nghĩa là nhà bánh. Chúa Giêsu tự nguyện trở thành tấm bánh nuôi dưỡng chúng ta. Ngài nằm trong máng cỏ như một lương thực mời gọi đoàn chiên đến để được bổ dưỡng. Lương thực đó không phải là lương thực vật chất nuôi xác, nhưng là lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng tâm hồn. Ngày nay, tuy nạn đói cơm bánh đã bớt phần gay gắt, nhưng lại xuất hiện những cơn đói mới: đói văn hóa, đói sự an ủi chia sẻ, và nhất là đói khát đời sống thiêng liêng. Chúa Giêsu chính là tấm bánh bẻ ra cho thế giới mới, đáp ứng những cơn đói mới của thế giới.

Đó là tiếng nói của tình yêu khiêm nhường. Tình yêu chân thực là tình yêu khiêm nhường. Tình yêu hạ mình vì người yêu. Chúa Giêsu đã hạ mình thẳm sâu. Từ trời xuống đất. Từ địa vị Thiên Chúa xuống địa vị làm người. Khiêm nhường nên nhường hết không gian cho con người. Những không gian rộng lớn, cao sang thuộc về con người. Chúa chỉ thu mình trong một góc nhỏ nghèo hèn của chuồng bò. Nhường không gian cho con người ăn nói. Còn Chúa chịu im lặng, thu nhỏ trong câm nín.

Đó là tiếng nói của tình yêu đi tìm. Tình yêu của Thiên Chúa luôn đi những bước trước. Yêu con người khi con người chưa biết yêu Chúa. Tha thứ cho con người trước khi con người xin lỗi. Đi tìm con người trước khi con người quay về. Cuộc đi tìm thật vất vả. Chúa phải bỏ trời cao, phải mặc thân phận yếu hèn, phải chịu khổ sở, phải chịu nhục nhã, phải chịu chết mới tìm được con người.

Đó là tiếng nói của tình yêu hy sinh. Vì yêu nên Chúa chấp nhận hết những thiệt thòi về phần mình. Chịu đói nghèo, chịu bị xua đuổi, chịu khổ nhục. Trẻ thơ Giêsu rét mướt nằm trong máng cỏ nói với ta điều gì nếu không phải là tình yêu, yêu đến độ chấp nhận tất cả.

Đó là tiếng nói của tình yêu kết hợp. Cứ dấu này các ngươi nhận biết Ngài, đó là một em bé sơ sinh nằm trong máng cỏ. Vâng, kỳ diệu thay tình yêu Thiên Chúa. Vì yêu nên đã kết hợp trọn vẹn với con người. Trở nên một với con người. Chấp nhận hết những gì của con người. Chấp nhận đói khát, khổ sở, nghèo nàn. Chấp nhận cả những bấp bênh, bất trắc của kiếp người.

Lời Thiên Chúa đang ngỏ với ta qua Hài Nhi nằm trong máng cỏ. Hãy đến bên hang đá để nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Hãy mở rộng trái tim để đón nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Trong bóng tối hận thù, ích kỷ, ghen ghét của thế giới, tình yêu Chúa là ánh sáng xé tan đêm tối. Hãy để ánh sáng tình yêu Chúa soi chiếu tâm hồn ta. Hãy đón nhận ánh sáng tình yêu của Chúa, để đến lượt chúng ta, chúng ta đem ánh sáng tình yêu của Chúa chiếu soi vào môi trường chung quanh ta. Để cho thế giới bớt tối tăm. Bấy giờ Lời của Chúa, Lời tình yêu sẽ vang dội khắp thế giới.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Bạn nghe thấy gì qua tiếng nói thinh lặng của Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ?

2) Yêu thương, ngỏ lời mà không được lắng nghe và đáp lại. Bạn cảm thấy thế nào nếu rơi vào tình trạng đó? Bạn có hiểu được lòng Thiên Chúa khi ngỏ lời yêu thương với bạn không?

3) Còn nhiều người chưa nghe được lời yêu thương của Chúa. Bạn có sẵn sàng làm sứ giả đem lời tình yêu của Chúa đến với họ không?

4) Để làm sứ giả tình thương, bạn cần những đức tính nào?

2. NGÀY CHÚA GIÁNG SINH-  R. Gutzwiller 

Việc truyền tin Chúa Giêsu nhập thể đã là lạ lùng vì tính cách trái ngược giữa vẻ khiêm hạ bên ngoài với sự cao cả bên trong. Tính cách trái ngược này lại còn lạ lùng và nổi bật hơn nơi việc Người sinh ra.

1) Chúa Giáng Sinh.

Việc Giáng Sinh không xảy ra tại Nagiarét như thường tình, nhưng là tại Bêlem, và không phải do một lời nói chính thức của thiên thần mà bằng mmột biến cố hoàn toàn trần thế, nghĩa là do sắc chỉ của Hoàng Đế Rôma. Như vậy Chúa Giêsu ngay từ ngày mở mắt chào đời đã tỏ ra phục luỵ quyền hành thế trần, như một kẻ yếu thế phải chịu khuất phục kẻ mạnh hơn. Tuy nhiên, đó là công việc của Thiên Chúa, vì người ta sẽ thấy rằng ở đây hành động của con người không ai ngờ lại phục vụ cho kế hoạch của Thiên Chúa. Hoàng đế Augustô ra lệnh kiểm tra nhân số trong đế quốc lớn lao của ông để gom thế giới lại thành một, biết rõ quân số, bảo đảm được sự thu thuế mà ông cần dùng tới với những chương trình vĩ đại của ông. nhưng thực tế, quyền năng thế tục đó bên ngoài hình như kìm kẹp Chúa Giêsu, thì chỉ là dụng cụ của quyền năng Thiên Chúa và qua đó, chương trình Cứu độ được hoàn thành.

Như vậy Chúa Giêsu đã giáng sinh tại Bêlem trong thành cảu Đavít, như Tin Mừng đã nhấn mạnh điều đó. Chính nơi đây, Đavít khi còn là mục đồng, được gọi về hiến Thánh, thì giờ đây, cũng chính ở đây, người con đích thực của Đavít lại sinh ra, Đấng chăn chiên thực sẽ chăn dẫn bầy chiên Thiên Chúa, Ngài là Đấng được ưu tuyển ngay trong bản chất thâm sâu của Ngài và như Đấng Messia, Đấng Thiên tử, Đấng được xức dầu.

Sắc lệnh của Hoàng đế Augustô còn kéo theo một hậu quả khác, đó là việc giáng sinh của Chúa Giêsu được tác thành và lồng vào lịch sử thế giới. Người ta xác định được nơi chốn và thời kỳ xảy ra việc đó. Đây là một biến cố lịch sử đích thực (chứ không phải là chuyện hoang đường hay thần thoại) có chỗ đứng trong không gian và thời gian. Bên cạnh Hoàng đế Augustô, muốn mang lại cho thế giới cơm no áo ấm, với thứ ‘hoà bình của Rôma’, thì Chúa Giêsu đúng là vị Cứu tinh thực sự của vũ hoàn vì đã mang đến ‘bình an của Thiên Chúa’.

Tuy thế, ở Bêlem, không còn chỗ cho Ngài, nên phải sinh trong chuồng bò lưà. Khi nói Chuá không có chỗ trong quán trọ, điều đó có thể hiểu là, thực sự thì những người lang thang, không còn chỗ ở trong quán đó. Nhưng cũng có ý nói, và đúng hơn, quán trọ là nơi những người khách lạ tạm trú, thì không phải là nơi xứng hợp đối với mầu nhiệm Thánh Chúa sinh ra. Vậy Chúa sẽ đến thế trần, không mái nhà, trong cảnh đơn côi và nghèo nàn của chuồng bò lừa. Nôi của Ngài là cái máng khô, đục vào ngay trong tảng đá để cho bò lừa ăn. Tin Mừng đặc biệt nhấn mạnh tới việc Hài nhi được bọc trong khăn. Cho thấy rằng bên cạnh cảnh nghèo hèn còn có nhân tính hoàn toàn, cùng với tất cả sự yếu đuối của tính con người.

Con đầu lòng của Thiên Chúa, hay nói cho gọn là Con Một Thiên Chúa đã đến thế gian này như là một trẻ nhỏ. Khung cảnh thật đơn giản, thanh bạch, nghèo hèn. Sự đơn giản và nghèo hèn này ai sánh được; tuy vậy, lại chẳng có biến cố nào đáng kể hơn, và tất cả mọi phú túc sẽ được trao cho Đấng vừa sinh ra. Trước nhan Chúa, đâu cần vẻ hào nhoáng bên ngoài với tất cả những gì liên hệ tới nó. Mà phải trái lại, cái vẻ bên ngoài càng lui đi thì mới càng thấy rõ vẻ lớn lao bên trong. Tất cả những gì phồn vinh, giả tạo, khoa trương, chỉ có bên ngoài thôi thì đi ngược lại bản tính của Chúa Giêsu ngay từ giờ đầu tiên của ngày Giáng Sinh của Ngài cho tới lúc cuối cùng với cái chế nghéo hèn và trần trụi trên cây thập tự.

2) Loan báo tin Chúa Giáng Sinh.

Các mục đồng là những người đầu tiên nhận được sứ điệp. Israel là dân của các mục tử và Chúa Giêsu chính là Đấng chăn giữ nhân loại mới. Những hạng quyền quý sao hiểu được vẻ cao trọng này, người giàu thì chạy theo của cải, còn người thông thái thì lại hiểu sai về sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì thế những người được gọi đầu phải là những người chăn chiên khiêm hạ, nghèo nàn, và là ít học chốn quê mùa.

Nội dung của sứ điệp là một lời loan tin vui tóm trong ba danh hiệu: Đấng Cứu Thế, Đấng xức dầu và là Chúa. Ngài là Đấng Cứu thế, vì Ngài đến giải phóng những người không thể tự giúp mình khỏi cảnh đau thương. Ngài là Đấng xức dầu vì bản tính nhân loại của Ngài đã được thánh hiến bằng dầu Thánh của Thiên Chúa: Ngài trở thành Tư tế, tiên tri và Vua cả. Và Ngài là Chúa vì mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Ngài.

Thật là một dấu chỉ lạ lùng: ‘Các ngươi sẽ thấy một Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ’. Điều nhỏ bé sẽ biểu thị vẻ lớn lao, yếu hèn –vẻ quyền năng và nghèo khổ– cảnh giàu sang. Việc Chúa Giêsu sinh ra làm đảo lộn những cái chúng ta đã biết cho tới khi đó, và làm biến đổi các thực tại thần thiêng nhờ các phạm trù khác và ứng dụng chúng vào các quy luật khác.

Sứ điệp kết thúc bằng ca khúc của các Thiên thần gồm hai phần, mà mỗi phần gồm ba yếu tố song song với nhau. Ở phần thứ nhất ta thấy có ‘trời, vinh danh và Thiên Chúa’. Phần hai có ‘thế trần, hoà bình và con người’.

Thiên Chúa ở trên trời sẽ đón nhận danh dự và vinh quang, vì vinh quang của Ngài vẫn dấu kín, sẽ bộc lộ nhờ Con Ngài. Còn chính Chúa Giêsu, mà mọi tác động của Ngài đều mang dấu vô biên sẽ có thể thực sự tôn vinh Thiên Chúa mà không một tạo vật nào có thể làm được. Bây giờ ở dưới thế, bình an sẽ ngự trị vì trời và đất giao hoà trong ơn thánh. Và tất cả những điều ấy có được là do lòng từ ái của Thiên Chúa ban cho nhân loại nhờ Thiên Chúa Nhập Thể.

Như vậy bài ca của các Thiên Thần là điệp ca trang trọng của Thánh vịnh về đời sống Chúa Giêsu, bài ca mang nặng ý nghĩa của một biến cố vĩ đại đang được thực hiện trên sân khấu cuộc đời này. Hơn cả một lời cầu chúc hay lời nguyện xin. ‘Chúc tụng Thiên Chúa’ đó là một lời loan báo và cũng là một lời tuyên ngôn vệ một sự kiện: vinh danh dâng lên Thiên Chúa và an bình ban xuống nhân loại. Giờ cứu độ đã điểm, công việc cứu rỗi đã bắt đầu vì Chúa hoàn vũ đã sinh ra.

Và đây là kết quả đầu tiên, các mục đồng quyết định đón nhận lời loan báo trong niềm tin và đi theo lời đó. Sau khi tìm kiếm, họ đã thấy Đức Maria, Thánh Giuse, và Hài nhi. Sự kiếm tìm đã không bõ công; họ đã ngạc nhiên, đầy thán phục.

Qua sự im lặng, người Mẹ trẻ đã cho thấy sự hân hoan được diễn tả trong bài Thánh ca ngợi khen của Mẹ nay nhường chỗ cho một sự suy niệm đầy an bình, và việc các mục đồng trở về với đời sống thường nhật quen thuộc giúp chúng ta nhận ra được là việc khám phá ra Chúa không có nghĩa là phải có sự thay đổi hoàn cảnh bên ngoài, nhưng là sự biến đổi sâu xa trong lòng.

Vì thế, trong cảnh trí này, nổi bật một sự mâu thuẫn:

Chúa Giêsu bị che dấu nay lại tỏ hiện, bị hạ xuống, nhưng rồi được tôn vinh; trao cho hai tạo vật yếu đuối săn sóc, nhưng được các thiên thần canh giữ; yếu hèn thực đó, nhưng lại là vị cứu tinh nhân loại. Hoàn toàn là người trong mọi sự, nhưng rạng ngời ánh quang của Thiên Chúa.

Trình thuật Kinh thánh nhấn mạnh trên sự mâu thuẫn này là giới thần thiêng đã đi sâu vào sự thấp hèn của nhân loại, nhưng qua đó lại chiếu ngời lên để tôn vinh Thiên Chúa.

3. LỄ GIÁNG SINH – Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

Tin mừng thứ tư được mở đầu bằng một bài thánh ca mang âm hưởng như một bản nhạc giao hưởng. Chắc hẳn, để viết nên bản giao hưởng thánh ấy, Thánh sử Gioan, vốn được mệnh danh là người môn đệ Chúa yêu, ngoài tài năng của một văn sỹ, còn là một con người có trái tim chan chứa yêu thương. Có thể nói, với lối trình bày gãy gọn và xúc tích, tác giả -cách nào đó, đã tuyên xưng phả hệ thần linh của Chúa Kytô. Lễ Giáng Sinh là dịp thuận tiện để chúng ta tuyên xưng Ngôi Lời chính là Thiên Chúa từ muôn muôn thuở, nay trở thành xác phàm đến cư ngụ giữa lòng nhân loại.

Nguồn gốc huyền nhiệm của Ngôi Lời.

Thánh sử Gioan đã nối kết việc Ngôi Lời (Logos) đến giữa nhân loại khai mở cuộc tạo thành mới như những trang đầu của sách Sáng thế. Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy, trong sách Sáng thế, Giavê Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ trong 6 ngày, ngày thứ 7, Người nghỉ ngơi. Ngôi Lời của Thiên Chúa cũng bắt đầu những sinh hoạt công khai của mình trong 6 ngày và kết thúc bằng phép lạ tại tiệc cưới Cana (x. Ga 1, 19-2,1-12). Điều đó cho thấy, Ngôi Lời từ muôn thưở đã hiện hữu và nhờ có Người, vạn vật mới được hình thành. Thánh Gioan đã dùng động từ “Ẽn” (đã có) để nói rằng từ thuở đời đời, Ngôi Lời đã hiện hữu, một sự hiện hữu vô tận, không chịu sự hạn định của thời gian.

Ngôi Lời không chỉ có từ trước muôn thuở, Người còn được giới thiệu như một người Con luôn hướng về Cha mình. Sự “hướng về” đó cho thấy Ngôi Lời luôn sống mật thiết và vĩnh cửu với Chúa Cha giống như hai người thân luôn hướng về nhau và luôn hiện diện bên nhau. Điều này được thể hiện rất rõ trong suốt cuộc đời trần thế của Chúa Kytô. Tất cả những biến cố xảy ra trong cuộc đời của Người, luôn có dấu ấn của Chúa Cha. Người luôn kết hiệp mật thiết với Chúa Cha, luôn trò chuyện, chia sẻ và tâm sự với Cha của Người.

Ngôi Lời đến trong thế gian

Có thể nói Ngôi Lời đến với thế gian bằng nhiều lần và bằng nhiều cách chứ không phải đợi đến khi Người sinh ra nơi hang đá Bêlem. Nhìn vào lịch sử cứu độ, chúng ta sẽ thấy Ngôi Lời đến trong thế gian ngay khi bắt đầu công cuộc tạo dựng. Nếu không có sự hiện diện của Người, chắc chắn vạn vật sẽ không được hình thành. Gioan đã xác nhận rất rõ điều này. Lần đó, không một ai biết sự hiện diện của Người. “Thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người” (1,10); Người cũng đến với “nhà của Người”. Nhà đó chính là dân tộc Dothái mà Người đã chọn làm dân riêng. Lần đó, Người đến trong Lề luật, trong lời của các Ngôn sứ,… để đồng hành với dân tộc này. Nhưng tiếc thay, dân tộc mà Người ưu tuyển chẳng chịu đón nhận Người (1,11); và cuối cùng, Người đến khi mặc lấy xác phàm và ở giữa lòng nhân loại. Người đến trong thân phận của một Hài nhi được hạ sinh trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn và nghiệt ngã: sinh ra trong máng cỏ hang lừa nơi đồng không hiu quạnh và lạnh lẽo. Lần này, “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”.

Ngôi Lời Thiên Chúa đến giữa lòng nhân loại, ở với nhân loại và “cắm lều” giữa lòng nhân loại. Ngày xưa, Giavê Thiên Chúa ở giữa dân Người trên đường từ Aicập về miền đất hứa. Ngày đó, Người hiện diện trong Lều tạm- đó là dấu chỉ cho thấy Giavê Thiên Chúa luôn ở cùng nhân loại. Ngày nay, Thiên Chúa ở giữa dân Người một cách gần gũi và thân mật. Thiên Chúa hiện diện dưới hình hài của một Hài nhi trong ngày Giáng sinh. Người hiện diện, mặc lấy xác phàm hữu hình để ở giữa loài người, đồng hành với con người hầu đưa con người về với Thiên Chúa.

Quà tặng vô giá mà Thiên Chúa muốn ban tặng nhân loại chính là việc cho Ngôi lời nhập thể, mang lấy thân phận mỏng dòn, yếu đuối của nhân loại. Người đến để chia sẻ với con người, để đồng hành với con người trong mọi hoàn cảnh. Người đến để yêu thương, để gánh lấy tội lỗi của nhân loại và cuối cùng chấp nhận hy sinh thân mình vì nhân loại.

Mừng lễ Giáng sinh, chúng ta không chỉ kỷ niệm một biến cố quan trọng đã xảy ra trong lịch sử nhân loại cách đây hơn 2000 năm, biến cố “Ngôi Lời trở thành xác phàm” và cư ngụ giữa lòng nhân loại; mà còn là dịp để mỗi người chúng ta nhận ra chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa trong dòng lịch sử, trong chính cuộc đời của mỗi người. Lạy Đấng Emmanuel, xin hãy đến và ở cùng chúng con luôn mãi!

4. LỜI CỦA THIÊN CHÚA Ở VỚI CON NGƯỜI – Lm. Giuse Lê Danh Tường

Thiên Chúa đã đến và ở giữa chúng ta. Thiên Chúa đã nói với chúng ta một lời trọn vẹn, một lời gói trọn cả tình yêu bao la. Lời của Thiên Chúa đã trở thành người và ở giữa chúng ta.

Trong bài đọc một, tác giả thư gửi tín hữu Do thái đã nhắc lại cho chúng ta: Thuở xưa, nhiều lần và dưới nhiều hình thức, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các tiên tri. Trong những ngày sau hết đây, Ngài đã phán dạy chúng ta qua Người Con. Vâng, Thiên Chúa đã nói với con người quá nhiều lần qua các sứ giả của Ngài. Giờ đây, Ngài muốn nói với con người một lời cuối cùng, chỉ một lời thôi, một lời mang trọn vẹn những gì Ngài muốn nói với con người, một lời tràn đầy yêu thương, một lời gói trọn cả trái tim và quyền năng của Đấng Tạo Hóa dành cho loài thụ tạo là mỗi chúng ta.

Trong bài Tin Mừng, thánh sử Gioan đã quảng diễn: Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa… Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta. Vâng, Lời đã trở thành xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Lời ấy của Thiên Chúa không chỉ là một lời nói đầu môi chót lưỡi, nhưng là một lời được diễn tả bằng mọi cung bậc của cuộc sống; Lời ấy sống động ở giữa nhân loại; Lời ấy là Giê-su; Mọi hành vi cử chỉ, cảm xúc, lời nói của Giê-su đều diễn tả Lời ấy của Thiên Chúa; Lời ấy nói rằng: Hỡi con người, Ta yêu ngươi. Cả cuộc đời nơi trần thế của Chúa Giê-su, từ Giáng sinh cho đến tử nạn trên thập giá, chỉ là một Lời mà Thiên Chúa muốn nói với con người. Một Lời dứt khoát và trọn vẹn.

Lời ấy được bắt đầu vang lên không phải trong một khung cảnh uy nghi tráng lệ, không phải trong một nghi thức hoành tráng, cao sang; Nhưng Lời ấy bắt đầu từ một khung cảnh âm u mù tối, trong nơi ẩm mốc của hang đá lạnh lẽo, giữa đồng không mông quạnh. Lời ấy không được vang lên bởi môi miệng của một người cao to vạm vỡ, cao sang đầy quyền lực; Nhưng Lời ấy được cất lên bởi tiếng khóc oe oe non nớt của một trẻ thơ vừa hạ sinh. Một tặng phẩm không được đặt trên mâm vàng đĩa ngọc, không được bọc trong lụa là gấm vóc; Tặng phẩm ấy lại được đặt trong máng cỏ hèn hạ của con chiên con bò. Vâng, Lời Thiên Chúa đã được vang lên từ trong khóc khuất của cuộc đời. Nhưng Lời ấy mang trong mình một ngọn lửa rực cháy tình yêu của Thiên Chúa, một Lời nồng nàn tràn đầy sức sống; Lời ấy là hạt nhân lan tỏa sức sống và lửa mến đến mọi phần tử xung quanh. Hơi ấm của Hài Nhi Giê-su đã lan tỏa tới trái tim của Mẹ Maria, tới Thánh cả Giuse, tới các mục đồng, tới Ba vua, tới các dân tộc; và hơn hai nghìn năm sau, hơi ấm ấy của Hài Nhi Giê-su đã chạm tới trái tim của tôi, trái tim của bạn, tới trái tim của mỗi người chúng ta.

Lời của Thiên Chúa luôn tràn đầy sức sống. Thánh Gioan viết: Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành. Lời Thiên Chúa có sức sáng tạo, làm cho từ hư vô trở nên hiện hữu. Lời Thiên Chúa có sức làm cho mọi thứ trở nên tươi đẹp. Lời ấy nay đã trở nên xác phàm và ở giữa chúng ta.

Cũng như các mục đồng được thiên thần báo tin cho biết để đến gặp Hài Nhi Giê-su, đến gặp Ngôi Lời của Thiên Chúa; chúng ta cũng được mời gọi đến gặp gỡ Giê-su nơi máng cỏ. Sự gặp gỡ Lời của Thiên Chúa giúp cho tâm hồn chúng ta được biến đổi, cho tâm hồn ta được ấm lại, được triển nở và khai sinh những hoa thơm quả ngọt. Lời ấy ngự trị trong tâm hồn tôi, làm xua tan những nghi ngờ, hiềm thù, ghen ghét trong tôi. Lời ấy dẫn lối mở đường cho tôi bước đi trong bình an. Lời ấy giúp tôi biết nói những lời hay ý đẹp, những lời nói xây dựng hòa bình, xây dựng tình thương, biết nói những lời ấm áp tình người và mang sức sống của tình Chúa.

Ước chi dịp lễ Giáng sinh luôn là cơ hội để mỗi người chúng ta gặp gỡ Chúa Giê-su, bởi Ngài chính là Lời của Thiên Chúa.

Nguyện xin hơi ấm Hài Nhi Giê-su nơi máng cỏ luôn sưởi ấm trái tim con mọi ngày trong cuộc sống.

5. TẠI SAO THIÊN CHÚA XUỐNG THẾ LÀM NGƯỜI? – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Thánh Phanxicô Assissi quỳ bên hang đá, chiêm ngắm tình yêu Thiên Chúa giáng sinh, ngài tự hỏi: tại sao Thiên Chúa quyền năng lại trở nên một em bé thấp hèn? Tại sao Thiên Chúa cao sang lại sinh ra trong hang lừa nghèo khó? Từ đó, ngài cảm thấy tâm hồn tràn ngập lòng yêu mến và không thể kiềm chế cảm xúc, ngài chạy ra các đường phố Assisi và kêu lên: “Anh chị em hãy yêu mến Chúa Hài Đồng, hãy yêu mến Chúa Hài Đồng”.Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI thốt lên lời thán phục: “Thiên Chúa quá cao cả đến nỗi Người có thể trở nên bé nhỏ, quá toàn năng đến nỗi có thể trở nên yếu kém và để gặp gỡ ta như một đứa trẻ không có bảo vệ để ta có thể yêu mến Người”.

Tất cả ý nghĩa của lễ Giáng Sinh đều xoay quanh một đứa trẻ. Hài Nhi ấy là Thiên Chúa đã thật sự làm người, đã thật sự sinh ra trong hình hài một đứa trẻ, với cha mẹ là Giuse và Maria.Và đó là Tin Mừng mà thiên sứ đã trao cho những người chăn chiên: “Anh em đừng sợ. Này tôi loan báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: Hôm nay Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em” (Lc 2,10-11). Tin Mừng sứ thần loan báo cho các mục đồng tại làng Bêlem năm xưa thực sự là Tin Mừng cho nhân loại mọi nơi và mọi thời.

Thiên Chúa siêu việt đã trở thành một con người.Thiên Chúa vĩ đại, quyền uy đã hiện thân nơi một đứa trẻ bé bỏng mong manh, bọc tã, nằm trong máng cỏ.

Tại sao Thiên Chúa xuống thế làm người?

Kinh Tin Kính Công đồng Nixêa (năm 325) đã trả lời: “Vì loài người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”. 

Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo đã đưa ra 4 lý do: là để cứu độ chúng ta, là để giúp chúng ta nhận ra tình thương của Chúa, là để trở thành mẫu mực thánh thiện cho chúng ta và là để chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa (GLCG số 457-460).

– Thiên Chúa sinh xuống làm người là để cứu độ loài người

Các thiên thần báo tin cho các mục đồng tại Bêlem: “Đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, cũng là tin mừng cho cả toàn dân : hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho các ngươi trong thành vua Đavít” (Lc 2,10-11). Thánh Gioan tông đồ viết : “Chúa Cha đã sai Con của Người đến làm Đấng Cứu Độ thế gian” (1Ga 4,14).

Từ nay,Thiên Chúa không còn đến với con người qua trung gian mà là Con Một được tặng ban cho nhân loại. Tình yêu Thiên Chúa không chỉ là lời hứa mà bằng chính nghĩa cử cao đẹp Ngôi Lời nhập thể. Từ nay, lời hứa cứu độ đã được thực hiện nơi Một Hài Nhi đã sinh ra. Lời hứa ngọt ngào từ thưở địa đàng khi Nguyên Tổ sa ngã đánh rơi khỏi tầm tay trái táo hạnh phúc (St 3,15). Rồi trải qua hàng ngàn năm bằng sự loan báo của các Ngôn sứ, Thiên Chúa vẫn mãi lời hứa tình yêu cứu độ.

Hài Nhi giáng sinh là một sự kiện đặc biệt của lịch sử nhân loại, là sự “hoàn tất” Lời Hứa của Thiên Chúa, là trung tâm của nhiệm cuộc cứu độ của Thiên Chúa, là đỉnh cao và là chủ đích của Thánh Kinh.

Chính nơi Ngôi Lời Nhập Thể, Thiên Chúa đã hoàn toàn tỏ mình và ban chính mình cho nhân loại. Ngôi Lời Nhập Thể là tuyệt đỉnh thời gian viên mãn đối với Ba Ngôi Thiên Chúa.

Hài Nhi Giêsu đã trở nên một sự tái tạo mới. Tái tạo khởi đi từ tha thứ và yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Cứu Độ làm nên trọng tâm sứ điệp của đức tin Kitô giáo. Từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, Giáo Hội công bố niềm tin ấy dọc dài thời gian giữa những thách đố của thế giới. Giáo Hội uỷ thác cho con cái mình như kho tàng quí giá để gìn giữ và chia sẻ cho người khác. Nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa nhận lấy thân phận con người, để chúng ta có thể đến được với Thiên Chúa và để thiết lập giao ước với loài người và con người giao ước liên đới với nhau.

– Thiên Chúa sinh xuống làm người để giúp con người nhận ra tình thương của Thiên Chúa.

Thánh Gioan tông đồ đã khẳng định: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8). Thiên Chúa là Đấng vô hình không ai thấy được và do đó con người cũng khó nhận ra tình yêu của Người. Vì thế thánh Gioan viết tiếp: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến trần gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (1Ga 4,9).

Nếu tội tổ tông gây tác hại là làm mất tình trạng ơn phúc và để cho tội lỗi lẻn vào thế giới, từ đó đau khổ và sự chết mặc sức hoành hành. Hài Nhi Giêsu sinh đến trong xác phàm lại là khởi đầu một mùa giải thoát. Hết rồi đêm tối vì Hài Nhi là ánh sáng. Hết rồi lỗi tội vì Hài Nhi là thánh ân. Hết rồi chết chóc vì Hài Nhi là nguồn sống. Hết rồi sầu muộn vì Hài Nhi là thiên đàng. Như vậy, khi xuống thế, Thiên Chúa đã đem thiên đàng vào cõi trần gian, để mối tình trời đất bị cắt đứt bao đời lại được kết nối một cách mầu nhiệm cho vinh danh trời cao và cho an bình dưới thế.

Tình yêu Thiên Chúa được Chúa Giêsu thể hiện qua đời sống nhân hậu, bao dung vô bờ của Ngài. Lời nói việc làm của Ngài chính là lời nói việc làm của Chúa Cha (Ga 14,10). Toàn bộ cuộc đời của Ngài được Chúa Cha chiếm ngự. Ngài như tấm gương trong suốt phản chiếu khuôn mặt và trái tim Chúa Cha.

Trong ba năm rao giảng công khai, Ngài đã luôn gần gũi với những người nghèo hèn trong xã hội, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền của họ và ưu tiên rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho những người bé nhỏ, những người bị bỏ rơi. Điều kỳ diệu và tuyệt vời là chính Đấng Tuyệt Đối, Đấng Toàn Năng, Cao Cả, Chí Thánh Chí Tôn và Hằng Hữu đã có thể trở thành tương đối, thấp hèn, bạn với quân thu thuế với phường tội lỗi, cuối cùng phải chết khổ hình. Nơi Đức Giêsu, sự uy nghi của Thiên Chúa tỏ hiện trong khiêm tốn và yếu đuối cách nghịch thường. Điều đó, sự khôn ngoan của bậc hiền triết không lý giải được, nhưng nói như Pascal, trái tim lại hiểu được vì nó có lý lẽ riêng của nó. Thiên Chúa của Đức Giêsu không phải là Thiên Chúa ngự trên toà cao cho người ta sấp mình thờ lạy mà không dám nhìn đến tôn nhan, không dám gọi tên mà chỉ dám cầu xin với niềm sợ hãi. Thiên Chúa của Đức Giêsu dễ gần, dễ thấy, dễ quen. Thiên Chúa hiện diện nơi con người Đức Giêsu khiêm hạ. Chính Ngôi Lời làm người đã chọn máng cỏ làm tổ ấm lúc chào đời, đã chọn xóm làng Nadarét làm nơi sinh sống, đã chọn những kẻ thấp hèn trong xã hội làm bầu bạn, đã quỳ gối rửa chân cho các môn đệ, rồi chọn cây thập giá làm giường khi chết cùng với hai kẻ cướp làm bạn đồng hành đi vào thế giới bên kia. Thiên Chúa làm người đã chọn nhà Giakêu để tạm trú, chọn người thiếu phụ Samari để gặp gỡ đối thoại, đã chấp nhận cử chỉ biết ơn của người phụ nữ tội lỗi Mađalêna, đã chọn kẻ trộm lành làm ứng viên đầu tiên vào Thiên Đàng, đã chọn Phaolô kẻ bắt bớ Giáo hội làm Tông Đồ Dân Ngoại…Ngài chính là Thiên Chúa yêu thương.

– Thiên Chúa sinh xuống làm người để trở thành mẫu mực thánh thiện cho con người

Thiên Chúa không ai thấy bao giờ, Con Một, Đấng ở nơi cung lòng Cha, chính Người đã thông tri” (Ga 1,18). Con người có thể biết Thiên Chúa qua công trình sáng tạo và lịch sử cứu độ, nhưng chưa ai thấy khuôn mặt Ngài. Chính Chúa Con tỏ bày cho nhân loại biết sự thật sâu xa của Thiên Chúa “Ai thấy Thầy là thấy Cha“. Qua cuộc sống và lời giảng dạy, Chúa Giêsu đã chỉ cho nhân loại thấy Chúa Cha nhân hậu giàu lòng xót thương.

Thiên Chúa là Đấng chí thánh. Chúa Giêsu đã dạy con người phải sống thánh thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện. Chúa Giêsu, một con người thánh thiện không có một dấu vết tội lỗi nào. Chính Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống đã làm người, giống chúng ta mọi phần, chỉ trừ tội lỗi. (Dt 4,15). Ngài dạy cho nhân loại con đường thánh thiện, và nêu gương thánh thiện. Vì thế, Ngài đã có thể nói: “Hãy học cùng tôi” (Mt 11,29). Khuôn mẫu thánh thiện mà Ngài để lại cho chúng ta được biểu lộ một cách rõ ràng qua tình yêu của Ngài đối với chúng ta, vì tình yêu là cốt lõi của lề luật. Vì thế Ngài dạy rằng: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Nơi Thiên Chúa, tình yêu và sự thánh thiện là một, bởi vì Thiên Chúa là Tình Yêu và đồng thời cũng là Đấng Thánh.

Mọi người Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh. Đó là một ơn gọi rất cao cả như lời Chúa Giêsu: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Ðấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Công Ðồng Vatican II cũng lập lại ý tưởng đó: “Mọi Kitô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo con đường của mỗi người” (GH 11,3). Trong các thư của Thánh Phaolô, ngài gọi các tín hữu là những vị thánh. Qua Bí Tích Rửa Tội, mọi tín hữu được tham dự vào sự thánh thiện của Thiên Chúa. Thánh Gioan Phaolô II nói rằng: thành công đẹp nhất của một cuộc đời là sự thánh thiện. Tin Chúa, yêu Chúa và sống theo lời Chúa dạy qua Tám Mối Phúc Thật, mọi tín hữu sẽ nên thánh.Trở nên giống Chúa Giêsu, trở nên trọn lành như Chúa Cha ở trên trời, trở nên thánh, đó là ơn gọi của mọi người Kitô hữu.

–  Thiên Chúa sinh xuống làm người để con người được thông phần bản tính Thiên Chúa.

Thánh Irénée đã nói về Đức Kitô rằng: “Người đã trở nên giống chúng ta, để chúng ta trở thành như Người”. Đó không phải là một sự thần hóa thật sự và trọn vẹn trong Con Thiên Chúa nhập thể sao? Về sau, Clément (Alexandrie) và Grégoire (Naziance) đã làm biến đổi suy tư ấy một cách sâu xa khi quả quyết: “Thiên Chúa đã làm người để con người làm Chúa”. Nhà thần học Karl Rahner viết: “Thiên Chúa làm người để con người được trở nên Thiên Chúa”, để con người trở thành con Thiên Chúa, với món quà tuyệt vời: “Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa…” ( 2Pr 1,4).

Trước Máng Cỏ Bêlem, thật ngạc nhiên, chúng ta sẽ khám phá ra tình thương bao la của Thiên Chúa. Lời hứa từ thuở ban sơ, hôm nay đã được thực hiện. Thiên Chúa tỏ bày tình thương bằng cách trao ban chính Con Một của Ngài cho nhân loại. Thánh Phaolô diễn tả: Thiên Chúa bước xuống phận con người, để con người được thông phần bản tính Thiên Chúa.

Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài. Ngôi Lời làm người mang lấy bản tính nhân loại và làm cho bản tính ấy được thông phần bản tính Thiên Chúa. Là Con Thiên Chúa, Ngài đã tự nguyện sinh ra làm con loài người để loài người trở thành con Thiên Chúa nhờ kết hợp với Ngài. Từ khi xuống thế làm người, Con Thiên Chúa đã tự đồng hóa mình với mỗi người trong nhân loại. Từ đây, phẩm giá của con người được nhìn nhận không chỉ vì họ là con người vượt trên mọi loài, nhưng còn vì họ là con Thiên Chúa.

Tin Mừng Giáng Sinh nâng cao phẩm giá con người ngay từ khi được cưu mang trong dạ mẹ và vừa mới sinh ra. Chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, chúng ta sẽ học được nhiều bài học về Sự Thật, Tự Do, Công Lý, Hoà Bình và Tình Thương. Hài Nhi Giêsu đã mở ra triều đại của Công Lý Tình Thương trên “nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời” (Is 9,5-6). Nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa nhận lấy thân phận con người, để chúng ta có thể đến được với Thiên Chúa và để thiết lập giao ước với loài người và con người giao ước liên đới với nhau. Giáng Sinh trở thành một đại lễ của nhân loại.

Giáng Sinh là ngày hội lớn duy nhất trên trái đất được đón mừng bởi mọi quốc gia, mọi sắc tộc, mọi tầng lớp xã hội. Từ núi cao, trong rừng sâu, xuống đồng bằng, vào thị tứ giàu sang… Qua đủ mọi hình thức: nhóm vài cây củi trên rừng, thắp ngọn nến đơn sơ trong ngôi Nhà Thờ bé nhỏ nghèo nàn vùng quê hẻo lánh, hay trăm ngàn ánh đèn muôn mầu rực rỡ chốn đô hội văn minh tráng lệ, khắp nơi đón mừng và cùng hát lên tâm tình:

Vinh danh Thiên Chúa trên trời.

Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương’’

Giáng Sinh, đất trời giao duyên trong hôn phối nhiệm mầu của tình yêu cứu độ. Thiên Chúa làm người, nối nhịp cầu tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại, bắc nhịp cầu nối liền giữa con người với nhau. Thiên Chúa yêu thương con người và muốn mọi người đáp lại bằng lòng yêu mến Ngài và yêu thương nhau.

6. NƠI TÌNH YÊU BẮT ĐẦU – Lm. Giuse Nguyễn

“Ta quen nhau đã bao lâu rồi” mà tại sao “Giọt buồn hoài vương trên môi mặn đắng?” Thưa bởi vì tình yêu đó mãi là giấc mơ. Vì vậy tác giả van xin “Này mùa đông ơi xin hãy làm tuyết rơi” Để làm chi? “Để chắn lối em anh về”, để cho em vì lạnh quá nên cần đến anh. Trong giấc mơ của nhạc sĩ Tiến Minh, mùa đông, nơi tuyết rơi là “nơi tình yêu bắt đầu”,vì nơi đó người ta cần đến nhau, người ta gặp gỡ nhau, người ta trao cho nhau hơi ấm để xóa tan giá lạnh của mùa đông.

Giáng Sinh năm nay, miền Nam Việt Nam thực sự cảm nhận được một mùa đông, vì lâu lắm rồi mới có cái lạnh đến xé da cắt thịt trong mùa Giáng Sinh. Trong mùa đông này chúng ta sống lại câu chuyện tình cách đây hơn 2000 năm tại cánh đồng Bêlem. Có thể nói Bêlem là “nơi tình yêu bắt đầu”, vì ở đó “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1, 14a).

Thế nhưng “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga1, 11). Tình yêu đã được trao ban, nhưng con người đã từ khước. Vì con người từ khước Tình Yêu nên Con Thiên Chúa mới giáng sinh trong hang bò lừa giữa trời đêm đông giá rét, nơi cánh đồng hoang vắng. Vì con người từ khước Tình Yêu nên thánh Giuse phải dẫn Đức Maria bồng Hài Nhi Giêsu trốn sang Ai Cập để trốn sự truy sát của vua Hêrôđê. Sau cùng, vì từ khước Tình Yêu mà con người đã đóng đinh Đức Giêsu trên thập giá. Vì vậy có thể nói đối với một số người “nơi tình yêu bắt đầu” cũng là chỗ tình yêu kết thúc. Kết thúc vì sự ích kỷ, ghen tuông, cố chấp của con người.

Thời tiết ở Việt Nam năm nay lạnh hơn mọi năm, nhưng xã hội Việt Nam ngày càng nóng hơn bởi những vụ án khủng khiếp. Nào là bà giết cháu vì mê tín dị đoan ở Thanh Hóa, vợ chồng xung đột dẫn đến bạo lực và hậu quả là vợ giết chết chồng ở Bình Dương ; nào là nhiều vụ trẻ em bị bạo hành ở khắp nơi ; nhiều vụ học sinh đánh nhau một cách dã man; chưa kể đến hàng loạt vụ án tham ô, chiếm đoạt tài sản mà phạm nhân là những lãnh đạo cấp cao… Cái nóng của xã hội đó càng làm cho tâm hồn thêm lạnh, vì thay vì tình yêu bắt đầu để sưởi ấm con tim, thì nó đã kết thúc bởi sự vô cảm của con người.

Trong y học không có bệnh vô cảm. Đó là căn bệnh của cách hành xử, căn bệnh của lối sống. Lời dạy của cha ông ta “Thương người như thể thương thân”từ lâu đã trở thành đạo lý của người Việt Nam. Tính nhân văn, lòng nhân ái phải là ngọn lửa sưởi ấm, là ánh sáng trong cuộc đời mỗi con người, mỗi gia đình cũng như toàn xã hội. Thế nhưng ngày nay, bên cạnh nhiều nét đẹp vẫn luôn hiện hữu trong cuộc sống của chúng ta với những con người luôn biết cống hiến, đồng cảm, chia sẻ, cưu mang, giúp đỡ người khác, thì cũng có không ít kẻ sống ích kỷ, vô trách nhiệm, vô cảm, vô đạo đức. Vô cảm chính là sự trơ lì cảm xúc, dửng dưng, thờ ơ, “máu lạnh” với những hiện tượng đời sống xung quanh, chỉ quan tâm đến quyền lợi của bản thân. Ra đường gặp cái đẹp không mảy may rung động; gặp cái tốt không ủng hộ; thấy cái xấu, cái ác không dám lên án, không dám chống lại…

Điểm nóng đó cũng đã ảnh hưởng đến đời sống gia đình, làm cho biết bao những gia đình phải tan vỡ hoặc gặp rất nhiều khó khăn. Thật trớ trêu khi những điểm nóng của xã hội lại làm cho gia đình lạnh tanh, rét buốt. Tiếp tục quan tâm đến đời sống gia đình, Giáo hội Việt Nam đã chọn chủ đề cho năm 2018 là “Đồng hành cùng các gia đình trẻ”; để giúp họ hiểu rằng: “hôn nhân là một hành trình dài, trong đó mỗi người phải gạt đi những ảo tưởng để đón nhận bạn đời của mình như họ là, cùng nhau nên hoàn thiện hơn mỗi ngày; hành trình này đòi hỏi sự kiên nhẫn, hiểu biết, hy sinh và quảng đại”. Nói tóm lại khi người ta biết yêu thương, biết quan tâm, biết mưu cầu hạnh phúc cho người khác thì chính tâm hồn của họ sẽ hạnh phúc, và gia đình, xã hội cũng sẽ hạnh phúc.

Mặc dù có vài nơi, vài người tình yêu đã kết thúc, nhưng rất nhiều người, rất nhiều nơi lấy mầu nhiệm Giáng Sinh làm “nơi tình yêu bắt đầu”. Ngày xưa các mục đồng là đại diện cho những người nghèo đã ấm lòng hơn khi đến kính viếng Hài Nhi Giêsu và chắc chắn chính họ đã loan truyền việc “một hài nhi giáng sinh”cho những người dân trong vùng. Các đạo sĩ phương đông cũng đã đến bái lạy Hài nhi Giêsu nhờ ngôi sao lạ, và khi trở về đất nước mình, chắc chắn họ cũng đã loan báo tin vui đó. Vì vậy mầu nhiệm Giáng sinh là nơi tình yêu bắt đầu.

Mùa Giáng sinh năm nay, mỗi người, mỗi gia đình chúng ta cũng hãy trở thành“nơi tình yêu bắt đầu” khi chúng ta cảm nhận được cái lạnh của thời tiết, cái lạnh của tâm hồn để chúng ta khắc phục bằng ngọn lửa tình yêu. Nhờ cái lạnh của thời tiết mà chúng ta thấy được có nhiều người già và trẻ em, nhiều gia đình khó khăn đang cần hơi ấm. Hãy bắt đầu bằng việc yêu thương, chăm sóc, giúp đỡ cho những người nghèo đang sống chung quanh chúng ta. Nhờ cái lạnh của tâm hồn mà chúng ta thấy được đời sống gia đình đang rất cần sự thông cảm, tha thứ để nâng đỡ cho nhau. Hãy bắt đầu bằng việc có thiện chí để giải quyết những xung đột trong gia đình. Hãy cho nhau những cơ hội để sửa sai, để làm lại từ đầu,… Khi mọi người biết cho nhau tình yêu thương thì đó là “nơi tình yêu bắt đầu”, vì người ta sống để yêu và yêu để sống.

Xin tình yêu Giáng Sinh trong năm nay trở thành nơi bắt đầu để tình yêu chúng con được lan tỏa khắp nơi, và đó là liều thuốc để chữa trị căn bệnh vô cảm trong gia đình, trong xã hội hôm nay.

7.  LỄ GIÁNG SINH – Lm. Anthony Trung Thành

Hang đá Bê-Lem và Chúa Giáng sinh là hai sự kiện luôn gắn liền với nhau. Vì thế, hễ ở đâu có người Công Giáo thì ở đó sẽ có hang đá trong dịp lễ Giáng sinh. Người Công Giáo làm hang đá để làm gì? Thưa, để diễn tả lại quang cảnh lúc Chúa Giáng sinh. Trong hang đá thường có nhiều bức tượng nhưng không thể thiếu ba bức tượng sau đây:

Thứ nhất, bức tượng Chúa Hài Đồng Giêsu: Ngài được bọc trong một chiếc khăn trắng và đặt nằm trên những cỏng cỏ khô, nói lên sự thiếu thốn nghèo hèn của ngày Ngài sinh ra. Chiếc khăn trắng báo trước về chiếc khăn liệm xác Ngài sau này.

Thứ hai, bức tượng Đức Maria: Ngài đang chắp tay và đứng bên phải trong hang đá. Tư thế chắp tay nói lên niềm tin của Mẹ vào Hài Nhi Giêsu là Đấng Cứu Thế. Đồng thời, tư thế chắp tay cũng nói lên sự khiêm nhường thẳm sâu của Mẹ. Nhìn kỹ hơn nữa chúng ta sẽ thấy, khuôn mặt của Mẹ không dấu được sự băn khoăn lo lắng và đượm chút buồn sầu: buồn vì sự từ chối của con người để Hài Nhi phải sinh ra trong cảnh thiếu thốn như vậy; băn khoăn lo lắng vì không biết rồi đây con trẻ lớn lên sẽ ra sao? Nhưng chắc chắn Mẹ vẫn tràn đầy niềm hy vọng phó thác vào Thiên Chúa tình yêu.

Thứ ba, bức tượng Thánh Giuse: Ngài thường được đặt phía bên trái trong hang đá, mặc chiếc áo choàng rộng, là cha nuôi của Hài Nhi, với sứ mạng bảo vệ Hài Nhi và Mẹ Người. Tin mừng cũng cho biết, đang khi Thánh Giuse đưa Đức Maria về quê quán để kê khai hộ khẩu thì Đức Maria đến ngày mãn nguyện khai hoa. Thánh Giuse đã tìm hết cách cho Đức Maria có được một nơi xứng đáng để sinh con, nhưng đều bị con người từ chối. Cuối cùng, Đức Maria đành phải sinh con trong hang đá nghèo hèn như vậy. Sau đó, Thánh Giuse tiếp tục sứ mạng của mình bằng cách chăm sóc bảo vệ Hài Nhi và Đức Maria: Đưa Hài Nhi và Mẹ Maria trốn sang Aicập khỏi sự lùng bắt của vủa Hêrôđê ; Cùng với Đức Mẹ đi tìm trẻ Giêsu khi Người lạc mất trong đền thờ ; Làm thợ mộc để nuôi sống Đức Maria và Chúa Giêsu…

Nhìn vào hang đá, chúng ta không thể không nghĩ đến cảnh nghèo nàn thiếu thốn của Thánh gia, nhưng chúng ta cũng không thể không nghĩ đến sự ấp áp đầy tình Chúa và tình người của Thánh gia. Cụ thể, sự hiện diện của Đức Maria và Thánh Giuse bên cạnh Hài Nhi Giêsu nói lên sự quan tâm chăm sóc của hai Đấng đối với trẻ Giêsu, điều đó muốn dạy cho mỗi người, mỗi gia đình chúng ta hôm nay bài học về sự quan tâm chăm sóc của người cha người mẹ đối với con cái.

Thật vậy, trong thời đại chúng ta đang sống, nhiều gia đình đang thiếu vắng tình thương, thiếu vắng sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ đối với con cái thể hiện một cách cụ thể qua các tình trạng đáng báo động sau đây:

Tình trạng phá thai : Nhiều người cha người mẹ đã khước từ con cái ngay từ khi còn trong bụng mẹ. Theo Vụ Sức khỏe Bà mẹ & Trẻ em – Bộ Y tế cho biết, mỗi năm nước ta có khoảng 250.000 – 300.000 ca phá thai được báo cáo chính thức. Đáng chú ý, tỉ lệ phá thai trên 12 tuần tuổi chiếm tới gần 80%. Trong khi đó, theo số liệu của Hội Kế hoạch hóa gia đình Việt Nam, 20-30% các ca phá thai là phụ nữ chưa kết hôn và 60-70% là sinh viên, học sinh, chủ yếu ở độ tuổi 15 – 19. (Nguồn: giadinh.net.vn)

Tình trạng trẻ em bị bỏ rơi: Vài năm gần đây, thông tin phát hiện trẻ sơ sinh, trẻ tật nguyền bị bỏ rơi ngày càng nhiều. Đáng quan tâm, không ít trong số đó, khi được phát hiện, có em đã tử vong, còn nhiều em, do bị vứt bỏ ở những nơi hoang vắng, được phát hiện muộn nên đã bị các loại côn trùng, động vật cắn, dẫn đến thương tật suốt đời. (Nguồn: baomoi.com).

Tình trạng trẻ em bị bạo hành trong gia đình và nhà trường: Các hình thức bạo lực đối với trẻ em là: chửi mắng thô tục, làm nhục, dùng đòn roi để trấn áp để lại hậu quả hết sức nặng nề về thể chất và tinh thần của trẻ. Các vụ việc bạo hành mà một số bậc cha mẹ, thầy cô, người thân gây ra cho trẻ em đã được phát hiện và đưa lên báo chí, khiến dư luận xã hội rất căm phẫn, đồng thời xã hội cũng lo ngại về sự xuống cấp của chuẩn mực đạo đức, sự thiếu vắng môi trường văn hoá chuẩn mực của giáo dục. (nguồn: congtacxahoi.net).

Tình trạng trẻ em bị bóc lột sức lao động: Những số liệu gần đây cho thấy, ở nước ta, trẻ em dưới 17 tuổi tham gia vào các hoạt động kinh tế chiếm khoảng trên dưới 30%, khoảng 60% trẻ lao động ở các cơ sở ngoài quốc doanh sống trong điều kiện khó khăn (ăn, ngủ, sức khỏe, vệ sinh không đảm bảo…), tiền công rẻ mạt, cường độ lao động cao; 71,2% trẻ làm việc từ 9 đến 10 giờ/ngày; 72% trẻ làm việc cả ngày Chúa Nhật. Nhóm trẻ độ tuổi 15-17 có tỷ lệ tham gia lao động tương đối cao (63,3% so với độ tuổi). Điều đáng chú ý là có khoảng 15% trẻ em làm thuê, phải làm các nghề với điều kiện nặng nhọc và độc hại như sản xuất gốm, sành sứ, vật liệu xây dựng dân dụng. Không ít trẻ em hiện nay đang nằm trong tình trạng bị lạm dụng sức lao động, thậm chí bị xâm phạm cơ thể và danh dự…(Nguồn: baomoi.com).

Tình trạng trẻ em bị lạm dụng tình dục: Theo số liệu từ Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, trong 5 năm từ 2011 đến 2015, cả nước có 5.300 vụ xâm hại tình dục trẻ em. Tính trung bình, cứ 8 giờ trôi qua lại có một trẻ em Việt Nam bị xâm hại. Đa số thủ phạm là người quen của nạn nhân. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng con số này chỉ là những vụ việc được báo cáo, còn rất nhiều vụ nạn nhân bị chính kẻ xâm hại dọa dẫm hoặc vì lý do nào đó đã không được thống kê. (Nguồn: news.zing.vn).

Là người kitô hữu, chúng ta hãy nói không với các tình trạng trên. Thay vào đó, chúng ta luôn phải biết tôn trọng sự sống, quan tâm và chăm sóc trẻ em, nhất là những người cha người mẹ hãy quan tâm chăm sóc con cái của mình, không được bỏ rơi chúng.

Bài báo với tựa đề: “Giáng sinh đầu đời không cha mẹ nhưng đầy ắp tình thương của em bé bị bỏ rơi” được đăng trên trang điện tử vietbao.vn đáng chúng ta suy nghĩ. Bài báo viết như sau: Giáng sinh là khoảng thời gian cả gia đình quây quần bên nhau, cùng nhau hưởng trọn cảm giác ấm áp tình yêu thương. Thế nhưng đâu đó vẫn có những đứa trẻ không nhận được hơi ấm gia đình khi bị bố mẹ bỏ lại giữa những ngày tiết trời lạnh xuống. Đó là trường hợp của bé gái chào tại Bệnh viện Từ Dũ (Sài Gòn) ngày 4/12, nặng 2,8 kg, hoàn toàn khỏe mạnh. Bé gái chào đời vào ngày 4/12. Theo chia sẻ từ các bác sĩ, bé gái được sinh tại bệnh viện và xuất viện sau đó. Tuy nhiên, 2 ngày sau bố mẹ em đã mang bé đến bệnh viện nhờ chăm sóc rồi bỏ đi với lý do không thể tiếp tục nuôi em. Mặc dù mọi người cố gắng liên lạc với người thân nhưng không được. Thông tin duy nhất mà các bác sĩ biết được đó là mẹ bé còn khá trẻ, 23 tuổi quê ở Kiên Giang. Bố mẹ bé gái đều còn khá trẻ và đã bỏ lại em khi không đủ khả năng nuôi dưỡng. Thế là hơn 2 tuần qua dưới sự chăm sóc của các bác sĩ nơi đây, đặc biệt là bác sĩ Nguyễn Thị Từ Anh, Trưởng khoa Sơ sinh, bé gái phần nào cảm nhận được tình yêu thương trong những ngày đầu đến với thế giới mới lạ. Không được bên bố mẹ nhưng em vẫn nhận được đầy đủ tình yêu thương từ các bác sĩ. “Chúng tôi muốn bù đắp phần nào cho con. Khi lớn lên, nhìn lại những bức ảnh này, con gái sẽ vững tin khi biết rằng con không cô đơn trong cuộc đời này”, bác sĩ Từ Anh chia sẻ. Chiếc mũ len Giáng sinh màu đỏ trên đầu bé gái chính là món quà nhỏ xinh mà mọi người nơi đây tự tay cắt may và mua thêm một vài vật liệu trang trí như cây thông Noel để tạo nên bức ảnh đầu đời thật ý nghĩa cho con. (Nguồn: vietbao.vn)

Lạy Chúa Hài Nhi, mặc dầu Chúa phải sinh ra trong hang bò lừa thiếu thốn đủ điều, nhưng thay vào đó Chúa lại được sưởi ấm bằng tình yêu thương của Mẹ Maria và Thánh Giuse. Xin cho các thai nhi và trẻ em hôm nay cũng được bảo vệ bởi những người có trách nhiệm, đặc biệt là người cha người mẹ, để các em được sinh ra, lớn lên xứng đáng là một con người, là con cái Chúa. Amen.

Sưu tầm- Tổng Hợp từ các nguồn

Có thể bạn quan tâm

Trả lời