Đã từ lâu, vấn nạn cho phép rước lễ đối với người Công giáo ly dị và tái hôn (CGLD&TH) được đem ra bàn thảo rất nhiều lần. Kết quả là, đã có không ít những quan điểm khác nhau, thậm chí có lúc đối lập nhau. Dựa trên bài viết của Nicholas J. Healy, JR với tựa đề: “The Merciful Gift Of Indissolubility And The Question Of Pastoral Care For Civilly Divorced And Remarried Catholics”, cũng như một vài tài liệu của Huấn Quyền và của các Đức Thánh Cha, người viết sẽ cố gắng làm sáng tỏ vấn nạn này.
Vì hôn nhân Công Giáo liên hệ đến đời sống đức tin, thế nên trước tiên, chúng ta cần phải hiểu được bản chất của hôn nhân Công giáo, để từ đó chúng ta mới có thể hiểu được mối liên hệ của hôn nhân với Bí Tích Thánh Thể. Theo truyền thống từ thời Hội Thánh sơ khai, hôn nhân Công giáo đã được xác định là hôn nhân trong Chúa (x.1Cr 7, 39). Bởi thế, hôn nhân này sẽ có những ý nghĩa như là sự triển nở ân sủng của Bí Tích Rửa Tội, đồng thời là dấu chỉ tình yêu của Đức Ki-tô với Hội Thánh (x.Ep 5,21-33). Về sau, thánh Augustinô đã triển khai rõ ràng hơn, khi ngài nhìn nhận hôn nhân Ki-tô giáo có ba sự tốt: Proles (việc sinh con), Fides (sự chung thủy), Sacramentum (tính bất khả phân ly)[1]. Đến thời Công Đồng Trento, Hội Thánh tiếp tục khẳng định về tính bất khả phân ly (x. DS 1797-1800), và không chấp nhận ly dị [x. DS 1801-1812]. Chính vì bản chất đặc thù của hôn nhân Công giáo, nên Giáo Luật năm 1917 đã ra vạ tuyệt thông cho những người CGLD&TH (x.GL năm 1917, 2356). Điều này hàm ý họ không được phép rước lễ.
Tuy nhiên, kể từ sau Công Đồng Vatican II, mối bận tâm mục vụ cho những người CGLD&TH ngày càng lớn, đặc biệt là mối quan tâm đến vấn đề được phép rước lễ. Vì thế đã có nhiều hướng giải quyết khác nhau nổi lên. Thứ nhất, có một số thần học gia chủ trương xét lại các nguyên tắc nền tảng của hôn nhân Công giáo. Chẳng hạn, Bernard Haring, Edward Schillebeeckx, Charles Curran, Richard McCormick, Theodore Mackin đề nghị bỏ đi khái niệm “tính bất khả phân ly” vì cho rằng hôn nhân trước đó không còn tồn tại nữa. Hơn nữa, họ còn dựa vào Hiến Chế Mục Vụ Gaudium et Spescho rằng tình yêu là yếu tính của hôn nhân [x. GE 48], nhưng khi tình yêu đó không còn thì hôn nhân đó cũng không thể tồn tại. Khi chấp nhận quan điểm này, thì người CGLD&TH không còn bị coi là mắc ngăn trở nữa, và họ có thể được phép rước lễ. Thứ hai, Walter Kasper và Karl Lehmann cũng như một số vị thần học gia khác đề nghị triển khai theo hướng khoan dung (oikonomia), vốn được thực hành ở bên Chính Thống Giáo. Cụ thể, người CGLD&TH có thể được rước lễ với các điều kiện cụ thể như sau: (1) có sự thống hối về những lỗi lầm mắc phải trong cuộc hôn nhân đầu tiên; (2) cuộc hôn nhân đầu tiên không thể hàn gắn được nữa; (3) cuộc hôn nhân thứ hai đã có hôn thú dân sự, và được xem như là một sự cần thiết để nuôi dạy con cái. Thứ ba, có những người lại chủ trương giảm nhẹ hơn nữa khi chỉ đề cập đến việc ăn năn về những lỗi lầm gây đổ vỡ cuộc hôn nhân đầu tiên thuộc về tòa trong (vì không thể chứng minh được tính vô hiệu của cuộc hôn nhân đầu tiên ở tòa ngoài). Sau đó họ có thể được rước lễ. Ngoài ra, nhà thần học Kasper còn đưa ra đề nghị khác nữa là xét lại tính hiệu lực của hôn nhân dựa trên đức tin. Theo ngài, vào thời điểm đám cưới của đôi hôn phối, họ đã không thực sự tin vào mầu nhiệm Chúa Ki-tô, thì linh mục được trao trách nhiệm có thể tuyên bố cuộc hôn nhân là vô hiệu. Hệ quả là họ sẽ không còn mắc ngăn trở nữa, nên họ cũng có thể được rước lễ. Tất cả các đề nghị thần học vừa nêu, mặc dù có vẻ rất hấp dẫn để giúp ích việc mục vụ, nhưng cũng còn bộc lộ không ít những giới hạn (ví dụ, không quan tâm đến hệ lụy của ly dị, giảm nhẹ tính bất khả phân ly, làm mất đi tính dấu chỉ tình yêu của Chúa Ki-tô và Hội Thánh, tách biệt giữa đức tin và ý hướng lập hôn ước,..).
Giáo Huấn hiện nay vẫn nhấn mạnh đến tính duy nhất, bất khả phân ly và tính chung thủy (x.GLHTCG 1643-1649). Vì lý do đó, trong Tông Huấn Familiaris Consortio, Đức Thánh Cha Gioan Phao-lô II khẳng định Hội Thánh vẫn không công nhận cuộc hôn nhân mới (của người ly dị) là thành sự, nếu như cuộc hôn nhân đầu đã thành sự rồi. Không những thế, ngài còn khẳng định những người ấy còn không được rước lễ bao lâu còn sống trong tình trạng này (x. FC, 84). Tiếp sau đó, trong Tông Huấn Sacramentum Caritatis, Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI tái khẳng định: “không thể cho những người đã ly dị tái hôn được lãnh nhận các Bí tích, chỉ vì tình trạng và điều kiện của họ nghịch lại cách khách quan sự liên hệ tình yêu giữa Đức Kitô và Hội Thánh, điều được biểu lộ và hiện thực trong Bí Tích Thánh Thể” (SC, 29). Nhìn chung, tất cả những giáo huấn này là những nguyên tắc phổ quát và đúng đắn. Do đó, trong Tông Huấn Amoris Laetitia, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc nhở rằng: “…đừng bao giờ làm cho người ta nghĩ rằng mình muốn giảm thiểu các giá trị của Tin Mừng” (x. AL, 301).
Điều quan trọng thứ hai khi bàn về vấn nạn cho người CGLD&TH rước lễ đó là cần phảigiải trừ những quan niệm sai lầm. Trong tác phẩm Muối Cho Đời[2], Đức Hồng Y Joseph Ratzinger đã khẳng định những người CGLD&TH không phải không còn tư cách thành viên của Hội Thánh. Thực sự, họ chỉ là những người đang ở trong một tình trạng đặt biệt nên không thể rước lễ. Điều này gây cho họ một nỗi khổ tâm lớn. Nỗi khổ tâm ấy càng trở nên nặng nề hơn khi chính họ coi việc rước lễ như là một nghi thức xã hội mà nếu mình không tham dự thì sẽ bị bẽ mặt. Không những thế, có những người lại quan niệm việc không được rước lễ cũng minh nhiên gắn liền với việc không được chúc phúc, khi trong Thánh lễ linh mục đọc câu “..phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Lý giải cho hai mối bận tâm này, Đức Hồng Y Ratzinger giải thích như sau: nếu người ta nhận thức được và tự nhủ rằng, tôi đã phạm một lỗi lầm, nên trong hoàn cảnh hiện tại tôi không thể lên rước lễ, thì người ta sẽ có cái nhìn khác. Khi ấy, người ta lại là những chứng nhân cho tính chất đặc biệt của hôn nhân Công giáo. Còn về lời mời chúc phúc mà vị linh mục đọc lên, lời ấy có ý ám chỉ đến một bữa tiệc cánh chung, với hình ảnh biểu trưng là Bí Tích Thánh Thể. Câu nói ấy là lời mời gọi chất vấn lương tâm mọi người, là những kẻ đang hướng về bữa tiệc đời đời. Vì thế, khi người CGLD&TH không được rước lễ không có nghĩa họ là người vô phúc, hay là những kẻ bị loại trừ khỏi bữa tiệc ấy. Trái lại, biết đâu, những người CGLD&TH đã chịu khổ đau nên có thể được tiếp nhận nồng hậu hơn nơi bữa tiệc ấy.
Bên cạnh đó, cũng cần phải cho những người CGLD&TH thấy được rằng, hình thức hiệp thông Thánh Thể không phải là hình thức tuyệt đối duy nhất (mặc dù Bí Tích Thánh Thể là cao trọng nhất), nhưng còn có nhiều hình thức khác để sống mầu nhiệm hiệp thông trong Hội Thánh. Cụ thể, họ có thể lắng nghe Lời Chúa, tham dự Hy tế Thánh lễ, kiên trì cầu nguyện, góp phần vào việc bác ái và các việc phục vụ công bằng của cộng đoàn, giáo dục con cái trong đức tin Ki-tô giáo, sống tinh thần thống hối và làm các việc đền tội. Khi làm như thế họ vẫn có thể lãnh nhận các ân sủng của Thiên Chúa (x. FC, 84).
Nói tóm lại, các nguyên tắc căn bản của hôn nhân Ki-tô giáo là không thay đổi. Tuy nhiên, vẫn có một khoảng cách rất lớn giữa nguyên tắc căn bản, và những hoàn cảnh đặc thù của từng cá nhân. Bởi thế, Đức Thánh Cha Phanxicô đề nghị cần phải có sự đồng hành và phân định cá vị đối với từng người CGLD&TH, để từ đó có những ứng xử thích hợp với từng tình huống (x. AL, 241-246 và 300-305). Bên cạnh đó, Ngài cũng cho thấy rằng vết thương sâu nhất của ngày hôm nay là cuộc khủng hoảng trong đức tin, cảm nhận sự vắng bóng Thiên Chúa, và mất đi sự tin tưởng vào sự tốt lành của trật tự tạo dựng. Vì thế, theo thiển ý của người viết, điều cần thiết Hội Thánh phải làm lúc này là hãy để ý đến những “vết thương” của người CGLD&TH đang đối diện nhằm chữa lành cho họ, hơn là thắc mắc về các nguyên tắc và đi tìm những câu trả lời dễ dãi (Yes/ No) – có được phép rước lễ hay không đối với người CGLD&TH, như nhiều người đã phản ứng sau khi Đức Thánh Cha Phanxicô ban hành Tông Huấn Amoris Laetitia [3].
[1] Quan điểm của thánh Augustinô xem trong G. Mathon, Le mariage des chrétiens, Paris, 1993, tome I, tr 107-125.
[2] Tác phẩm ghi lại cuộc đối thoại giữa Đức Hồng Y Joseph Ratzinger đã trao đổi với ký giả Peter Seewald, được đăng trên trang http://lamhong.org/muoi-cho-doi-hong-y-joseph-ratzinger-dgh-benedicto-xvi.
[3] Xem http://www.vietcatholic.net/News/Html/239464.htm
Nguyễn Văn Chí, S.J.
Có thể bạn quan tâm
Suy Niệm Lễ Giáng Sinh – Một Người Con Đã Được Ban Tặng..
Th12
Ngày 25 Tháng 12 – Đại Lễ Giáng Sinh
Th12
Ngắm nhìn Hang Đá Máng Cỏ chúng ta nghĩ gì?
Th12
Thư Gửi Sinh Viên, Học Sinh Công Giáo Nhân Dịp Mừng Lễ Chúa..
Th12
Thánh Lễ An Táng Đức Cố Tổng Giám Mục Têphanô Nguyễn Như Thể
Th12
Suy Niệm Chúa Nhật IV Mùa Vọng C: Đức Maria, Người mang Chúa..
Th12
Đức Thánh Cha Phanxicô: Năm Thánh, Cơ Hội Ân Sủng Gặp Gỡ Chúa..
Th12
Bầu không khí và các Hang đá mừng Chúa Giáng Sinh tại Giáo..
Th12
Thánh Ca Năm Thánh 2025
Th12
Điều gì đã lấy mất ý nghĩa Giáng sinh của chúng ta
Th12
Cầu nguyện cho Đức Thánh Cha dịp ngài tròn 88 tuổi
Th12
Bài Hát Cộng Đồng Lễ Chúa Giáng Sinh Năm 2024
Th12
VPTGM-GPHT: Thông báo Thánh lễ Khai mạc Năm Thánh 2025
Th12
5 Cách Đơn Giản Để Dọn Tâm Hồn Đón Chúa
Th12
Ai Tín Của Toà Tổng Giám Mục Huế: Đức Nguyên Tổng Giám Mục..
Th12
Hy Vọng Trong Thời Đại Kỹ Thuật Số: Những Đề Xuất Mục Vụ..
Th12
Nguồn Gốc và Ý Nghĩa Của Hang Đá
Th12
Bài Hát Cộng Đồng Lễ Đêm Chúa Giáng Sinh Năm 2024
Th12
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam Dựng Bia Ghi Ơn Hội Thừa Sai..
Th12
Lần Đầu Tiên Đức Thánh Cha Bổ Nhiệm Phụ Nữ Làm Thành Viên..
Th12