Nghiên huấn của Ủy ban Giáo dân Bài huấn luyện hàng tháng của Ủy Ban Giáo dân. Bài 1

842 lượt xem

Bài 1

Ơn gọi lãnh đạo mục vụ

Lãnh đạo mục vụ là một hoạt động mới mẻ với hầu hết thành viên Hội đồng mục vụ giáo xứ chúng ta. Hơn nữa, chúng ta đảm nhận trách nhiệm lãnh đạo này không chỉ với tư cách cá nhân đảm nhận một chức vụ, nhưng còn với tư cách đoàn thể Hội đồng mục vụ giáo xứ. Khi thi hành trách nhiệm lãnh đạo như thế, không ít lần chúng ta kinh nghiệm về sự khác biệt giữa các thành viên và những thách đố mà sự khác biệt ấy gây ra. Thật ra, tương tự như nhóm Mười Hai, chúng ta không phải một nhóm đồng nhất, nhưng chúng ta được kêu gọi để xây dựng sự hiệp nhất trong nhóm, sự hiệp nhất vượt qua sự khác biệt, để tiếp tục ôm ấp và chuyển trao Tin mừng vào đôi tay và trái tim nhân loại. Chúng ta nhận ra nguyên lý và nền tảng sự hiệp nhất này ở ngay khởi đầu và nguồn cội ơn gọi lãnh đạo mục vụ.

Ơn gọi lãnh đạo mục vụ không phải là một lựa chọn chức vụ hay công việc phục vụ, nhưng trên hết là đáp lời mời gọi của Đức Giêsu: “Rồi Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn. Và các ông đến với Người.” (Mc 3,13). Ơn gọi ấy khởi đi từ ý muốn của Đức Giêsu; Người gọi “những kẻ Người muốn” và Người cầu nguyện trước khi chọn gọi họ: “Chúa Giê-su đi lên núi cầu nguyện, và suốt đêm Người cầu nguyện cùng Thiên Chúa” (Lc 6,12). Ơn gọi lãnh đạo mục vụ khi ấy là một tiến trình năng động xuyên suốt và liên tục “đến với” Đức Giêsu: “Và các ông đến với Người”. Từng thành viên Hội đồng mục vụ chúng ta không được kêu gọi để đến với chức vụ hay công việc, dù là chức vụ hay công việc chính đáng và cao trọng, nhưng được kêu gọi “đến với” Đức Giêsu.

Đức Giêsu chọn gọi từng người “đến với Người” và chính Người tạo lập họ thành nhóm-thành cộng đoàn: “Người lập nhóm Mười Hai”. Nhìn vào danh sách các Tông đồ, chúng ta thấy các ngài khác nhau như thế nào (Mc 3,16-19). Hình ảnh nhóm Mười Hai có thể phần nào cho thấy hình ảnh của nhóm Hội đồng mục vụ giáo xứ chúng ta. Mỗi người mỗi vẻ; mỗi người mỗi tính cách, mỗi cá tính. Xây dựng sự hiệp nhất trong một nhóm khác biệt nhau như thế hẳn là một thách đố lớn và có khi bất khả thi. Tuy nhiên, điều quan trọng là, hãy để cho Đức Giêsu “lập nhóm”. Chính Người gọi chúng ta đến với Người và cũng chính Người liên kết chúng ta thành nhóm-thành cộng đoàn.

“Đến với Người” và “ở lại với Người”, đó là đòi hỏi đầu tiên của người, của từng thành viên Hội đồng mục vụ, vì có như vậy, tính môn đệ mới được liên tục và mãi gắn kết với Đức Giêsu. Đến được với Người thì mới đến được với nhau và để Người lập nhóm-lập cộng đoàn. Khi “đến với Người”, từng thành viên Hội đồng mục vụ chúng ta tham dự vào sứ mạng cao trọng này. Lập nhóm hay xây dựng tương quan mục vụ chính là một sứ vụ “bản lề” của người lãnh đạo mục vụ, của từng thành viên Hội đồng mục vụ giáo xứ. Để thực thi sứ vụ “bản lề” này, từng người chúng ta cần “đến với Người” và cùng Người, đến với anh chị em.

Như thế, ơn gọi lãnh đạo mục vụ là một năng động xây dựng cộng đoàn môn đệ. Từ nhóm hay cộng đoàn, từng người chúng ta tiếp tục “đi ra” loan báo Tin mừng bằng lời nói, việc làm và đời sống; từ nhóm hay cộng đoàn này, Đức Giêsu tiếp tục thực hiện sứ mạng của Người, đó là phá đổ quyền lực bóng tối, xua trừ sự dữ và tất cả những gì làm cho con người trở nên tê liệt và lệ thuộc.

Hồi tâm

Tiến trình tôi đón nhận ơn gọi lãnh đạo mục vụ diễn ra như thế nào? Tôi có tăng tiến qua việc đảm nhận trách vụ lãnh đạo trong cộng đoàn giáo xứ không?

Tôi quan tâm tạo lập tương quan với các thành viên khác trong Hội đồng mục vụ không? Trong thực tế, tôi đã-đang làm gì để phát triển tương quan giữa các thành viên Hội đồng mục vụ?

Tôi thường làm gì để giải hoà những bất đồng trong Hội đồng mục vu? Khi đó, tôi có thường “đến với” Đức Giêsu không?

Lm Vũ Ngọc Tín SJ.

Ban Nghiên huấn UB. Mục vụ Giáo dân

BÀI NGHIÊN HUẤN QUẢN TRỊ MỤC VỤ

VỊ MỤC TỬ RIÊNG CỦA GIÁO XỨ

“Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình” (Mt 20,1).

Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia…

Khi nghe nói về “Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia…”, người nghe có thể bắt đầu hình dung về một nước trời, ông chủ, gia nhân… Theo đó, nhà chuyên môn về tổ chức sẽ có thể bắt đầu hình thành trong trí những định hướng từ câu Tin Mừng này, về việc thế nào là lãnh đạo mục vụ(leadership in ministry) và quản trị mục vụ (pastoral management). Nghĩa là, người ta nên suy tưthế nào về lãnh đạo và quản trị để có thể hiểu, sống và áp dụng vào sinh hoạt trong Giáo hội.

Cụ thể hơn, cả câu Lời Chúa “Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình”[1] có thể giúp soi sáng, và góp phần giải thích như thế nào về các mối tương quan của các thành viên trong giáo xứ, trong hội đồng mục vụ giáo xứ. Điều này tất yếu dẫn đến việc cần hiểu biết thêm về vai trò của vị linh mục chính xứ một xứ đạo. Với ước mong hiểu biết như thế, nhà chuyên môn buộc phải tự hỏi mình, để thêm phần thấu đáo, linh mục chính xứ là một nhà lãnh đạo (leader) hay một quản trị viên (manager).

Vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc

Trước hết, nội dung của phần trích “vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc vườn nho…” áp dụng đúng cho mọi Ki-tô hữu. Tất cả đều được Chúa kêu mời vào làm việc vườn nho của Chúa, trong đó có các giáo sĩ, tu sĩ. Song, cũng chính nội dung ấy – trong cái nhìn về lãnh đạo và quản trị– còn có thể được hiểu và áp dụng tốt hơn cho bổn phận phải tận tụy thi hành nhiệm vụ của vị linh mục chính xứ tại vườn nho giáo xứ được ủy thác cho ngài là chủ chăn riêng, mục tử riêng (proper pastor).

Quản trị viên ra sức làm mọi việc cho đúng cách; nhà lãnh đạo cố gắng làm những việc đúng, việc phải…; vị mục tử riêng không chỉ nỗ lực làm những việc đúng, việc phải, mà còn cần nỗ lực làm những việc ấy sao cho đúng cách nữa.[2]

Sau là, vị mục tử riêng cần tận tâm thi hành nhiệm vụ được uỷ thác – việc săn sóc mục vụ “vừa tảng sáng đã ra… vườn nho…” – cùng với các nhân sự liên quan và luôn luôn dưới quyền của đứcgiám mục giáo phận. Thật vậy, vì được gọi thông phần với giám mục…

… vào tác vụ của Ðức Ki-tô, ngõ hầu chu tất nhiệm vụ giảng dạy, thánh hoá và quản trị đối với cộng đoàn ấy, với sự cộng tác của các linh mục khác hoặc với các phó tế và cả sự hợp lực của các giáo dân, theo quy tắc luật định.[3]

Hoá ra, linh mục chính xứ không nhất thiết chỉ là nhà lãnh đạo theo quan niệm trần thế, cũng không thuần tuý chỉ là quản trị viên. Linh mục chính xứ là người mục tử riêng, vị chủ chăn riêng; ngài cần ơn Chúa cách riêng để chu toàn vai trò của mình. “Khôn ngoan như con rắn và hiền lành như chim câu” là khuôn vàng thước ngọc cho công việc bổn phận của ngài, công cuộc hợp tác mục vụ.[4]

Trong vườn nho…

Thật vậy, ở mọi cấp độ của tổ chức, sự hợp tác trong lãnh đạo là rất cần thiết mà cũng rất tế nhị. Cần sự tỉnh táo và đặt mình đúng chỗ. Không tự tôn cũng không tự ti. Nhưng tự trọng. Trong vườn nho của mình, linh mục chính xứ không chỉ là nhà lãnh đạo mà còn là quản trị viên. Ngài là vị mục tử riêng của giáo xứ được uỷ thác cho ngài. Chẳng vậy mà, trong tập Gợi ý cho một quy chế hội đồng mục vụ giáo xứ, Uỷ ban Giáo Dân (HĐGMVN), ngày 04 tháng 4 năm 2010, đã từng viết:[5] “Linh mục chính xứ là: (1) mục tử (chủ chăn) riêng của giáo xứ, thành viên đương nhiên của hội đồng mục vụ giáo xứ;[6] (2) người hướng dẫn cộng đoàn giáo xứ, thi hành nhiệm vụ thánh hoá, giảng dạy, và phục vụ (tư tế, ngôn sứ và vương đế) dưới quyền của giám mục giáo phận;[7](3) người đại diện của giáo xứ trong tất cả mọi hành vi pháp lý, liên đới và hiệp thông với mọi người”.[8]

[1] Mt 20,1.

[2] A manager tries to do the things right; a leader tries to do the right things; a proper pastor tries to do not only the right things but also the things right. (x. Ta, A Training Program to Promote Collaborative Leadership… (Washington, DC: The Catholic University of America, 2005), 95.

[3] BGL 1983, đ. 519.

[4] X. Mt 10,16. Suy tư thần học nhằm hỗ trợ mục vụ thực hành này cũng không được ra khỏi khuôn thuớc đó (x. Ta, Quản trị giáo xứ…, [TP. HCM, Nxb. Tôn Giáo, 2015], 4).

[5] X. Mt 20,1-7; BGL 1983, đđ. 228; 512; 532; 536; 537.

[6] X. BGL 1983, đ. 519. Thành viên đương nhiên này đứng đầu hội đồng mục vụ giáo xứ trong tư cách là vị “mục tử riêng” của giáo xứ (người đứng đầu là người “rốt hết”, là người phục vụ).

[7] X. BGL 1983, đđ. 518; 519.

[8] X. Ta, Thần học mục vụ… (TP. HCM, Nxb. Tôn Giáo, 2015), 751; BGL 1983, đđ. 519; 532.

BÀI NGHIÊN HUẤN MỤC VỤ

Con đường tình yêu mở rộng cho tất cả mọi người

Lời mở

Công đồng Vaticanô II, trong Hiến chế Mục vụ “Vui mừng và Hy vọng” đã xác định rằng: “Đối với những ai tin vào tình yêu Thiên Chúa, Người cho họ xác tín rằng con đường tình yêu mở rộng cho tất cả mọi người”[1], vì Thiên Chúa đã đặt tình yêu vào trong lòng con người như một dấu hiệu đặc biệt khi dựng nên họ theo hình ảnh của Ngài và giống như Ngài.

1.1. Một Trời yêu thương

Từ ngàn xưa cho đến ngày nay, dân tộc Việt Nam chúng ta tin vào Trời. Niềm tin ấy được diễn tả trong đời sống hằng ngày, trong những nghi lễ của vua chúa trên Tế đàn Nam Giao cũng như trong các lễ hội dân gian, được lưu trữ trong kho tàng văn hoá dân tộc qua những câu ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích về bánh chưng, bánh giầy…

Trời không phải chỉ là khoảng không gian xanh thẳm trên đầu nhưng là một Đấng thiêng liêng, thấu suốt mọi sự (Trời xanh có mắt), quyền phép vô song, tạo dựng nên vạn vật (Trời sinh, Trời dưỡng; Con chim nó hót trên cành, Nếu Trời không có, có mình làm sao, Con chim nó hót trên cao, Nếu Trời không có, làm sao có mình?), nhìn thấu mọi sự và soi thấu lòng dạ khôn dò của con người (Trời nào có phụ ai đâu, Hay làm thì giầu, có chí thì nên). Vì thế, người ta cầu Trời ban cho mình những thứ cần thiết (Lạy Trời mưa xuống, Lấy nước tôi uống, Lấy ruộng tôi cày, Lấy đầy bát cơm, Lấy rơm đun bếp…). Trời là gương mẫu cho người ta noi theo, tạo thành một nền luân lý gọi là “đạo Trời” để con người tuân giữ (Dù ai nói ngược, nói xuôi, Ta đây vẫn giữ đạo Trời khăng khăng). Tất cả đều diễn tả tình yêu thương của Trời đối với muôn loài.

Khi đạo Công giáo được các thừa sai dòng Tên chính thức truyền vào Việt Nam trong khoảng năm 1615-1665, các ngài đã dạy cho dân tộc Việt Nam về đạo Trời đó, nhất là trong cuốn giáo lý Phép Giảng Tám Ngày của linh mục Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes). Trong cuốn sách đầu tiên được in bằng chữ quốc ngữ này, cha Đắc Lộ gọi Trời là Đức Chúa Trời[2] . Nhiều bản kinh chúng ta vẫn còn đang giữ tên gọi đó như kinh Mười Điều Răn, kinh Cám Ơn, kinh Tin Kính của các Tông đồ…

Trong dòng lịch sử dân tộc, người Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề bởi nền văn học Trung Hoa. Đạo Trời của người Việt có một số nét tương đồng với đạo Khổng hay Nho giáo của người Tàu như “Thiên bất dung gian, Thiên thời, địa lợi, nhân hoà”. Từ sau Công đồng Kẻ Sở năm 1924, nhiều sách vở Công giáo bắt đầu dùng từ Thiên Chúa, viết tắt bởi từ “Thiên địa chân Chúa”, có nghĩa là vị Chúa đích thực của trời đất, thay cho từ Đức Chúa Trời[3].

Thật ra khi cảm nghiệm được tình yêu của Chúa Trời dành cho con người và vạn vật, người Việt dễ dàng đón nhận niềm tin của người Công giáo dành cho Thiên Chúa. Điều này đã được nhiều học giả ghi nhận: “Xưa kia chỉ biết kêu trời. Mà nay đã biết gọi Trời là Cha. Trần gian chẳng phải là nhà. Đi về vĩnh cửu gặp Cha trên Trời”[4].

1.2. Tình yêu ở đây là gì ?

“Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4, 8.16), nghĩa là bản thể của Thiên Chúa là tình yêu. Vì con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, như họa ảnh của Ngài, nên tình yêu được đưa vào trong bản tính của con người, và tình yêu trong con người không chỉ còn là những cảm xúc dù mãnh liệt và có trách nhiệm[5] . Tình yêu nơi Kitô hữu còn là “một nhân đức, nghĩa là một năng lực được thủ đắc bằng huấn luyện”[6] , vì thế chúng ta mới nói đến đức tin-đức cậy-đức mến.

Sau hết, tình yêu còn là ân huệ cao quý hơn cả và tồn tại mãi mãi, như thánh Phaolô đã giải thích cho chúng ta: “Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được. Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1Cr 13,7-8.13).

Tình yêu đó là chính Chúa Thánh Thần được Chúa Giêsu ban cho ta khi thổi Thần Khí của Người trên chúng ta. Đó cũng là “tình yêu của Cha Trên Trời đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần Ngài ban cho ta” (x. Rm 5,5) để hướng dẫn chúng ta như những người con tự do của Thiên Chúa, chứ không phải là những nô lệ sợ hãi, mà dân Do Thái xưa kia đã cảm nhận, và để chúng ta có thể nói lên hai tiếng “Abba, Cha ơi!” đối với Thiên Chúa như Thánh Phao lô nhắc nhở (x. Rm 8,14-17).

1.3. Con đường tình yêu

Con đường tình yêu đó cũng là chính Đức Giêsu thực hiện cho mỗi người chúng ta khi mời gọi chúng ta bước theo Người “anh em hãy theo Thầy”, vì Người chính là con đường dẫn đến sự thật giải thoát và sự sống vĩnh hằng (x. Ga 14,6). Người thúc giục ta: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19-20).

Vì thế, tình yêu của Ba Ngôi vừa là thực tại để chúng ta tôn thờ từng giây phút trong đời sống, đồng thời là một nhân đức để chúng ta luyện tập theo gương tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa.

  1. Những đặc tính của tình yêu Ba Ngôi

Chúng ta sẽ thấy ba đặc tính kỳ diệu trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi mà không một tôn giáo nào khác có thể dạy chúng ta như Kitô giáo. Đó là tình yêu sáng tạo của Chúa Cha, tình yêu cứu độ của Chúa Con và tình yêu thần thánh hoá của Chúa Thánh Thần.

2.1. Tình yêu sáng tạo của Chúa Cha

Tình yêu chân thật không bao giờ ích kỷ, đóng kín nơi mình, tự thoả mãn với mình, nhưng luôn luôn hướng về đối tượng mình yêu để chia sẻ tất cả những gì mình có. Đó là tình yêu của Chúa Cha. Từ tình yêu đó, Chúa Con đã sinh ra. Cũng nhờ tình yêu đó mà muôn loài muôn vật được tạo thành. Chúng ta thấy muôn loài đều phản ánh tình yêu trong sáng và tốt lành của Cha Trên Trời qua màu sắc của từng bông hoa, cánh bướm, đặc biệt là vẻ đẹp nơi mỗi con người. Chúng biểu lộ đặc tính chân thiện mỹ, hạnh phúc, bình an, niềm vui của tình yêu sáng tạo này.

Vì thế, chúng ta đang được mời gọi nhìn lại tình yêu của chính mình để xét xem tình yêu đó có thúc đẩy ta chia sẻ những gì mình có cho người khác không, nhất là cho những người nghèo khổ, dốt nát, yếu hèn, bệnh tật? Tình yêu của chúng ta có mang lại niềm vui, hạnh phúc và bình an cho họ không, hay lại khai thác, bóc lột, làm cho họ khốn khổ hơn khi chưa yêu ta? Tình yêu của ta có mang đặc tính chân thiện mỹ không hay nó giả dối, ác độc, xấu xa?

2.2. Tình yêu cứu độ của Chúa Con

Đặc tính cứu độ đã được diễn tả bằng những hành động cụ thể như Đức Giêsu đã làm trong cuộc đời trần thế của Người. Những hành động đó nhắc nhở rằng ta không được yêu chỉ bằng lời lẽ ngoài môi miệng, nhưng bằng những hành động tích cực thông thường trong đời sống[7] . Đức thánh Giáo hoàng Gioan XXIII đã gửi chúng ta lời nhắn nhủ rằng: “Được khích lệ từ lòng bác ái của Đức Kitô, người Kitô hữu chúng ta cảm thấy sự thôi thúc phải yêu thương anh em đồng loại. Người đó xem nhu cầu, nỗi đau và niềm vui của tha nhân như của chính mình. Các hoạt động trong mọi lĩnh vực của người tín hữu ấy luôn mang tính nối kết vững chắc với tha nhân. Mỗi hành động của họ đều năng động, rộng lượng và ân cần. Vì “đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật”[8] .

Tình yêu cứu độ của Ngôi Con luôn mời gọi chúng ta dám hy sinh cho đến cùng như Chúa Giêsu đã chết trên thập giá. Chúng ta cảm nghiệm được sự hy sinh ấy của vạn vật trong từng bữa ăn mỗi ngày, cảm nghiệm được sự hy sinh ấy nơi cha mẹ hy sinh cho con cái, như người tình dám chết cho người mình yêu, như người chiến sĩ hy sinh mạng sống cho đất nước. Nếu tình yêu của ta không mang đặc tính cụ thể và hy sinh thì nó cũng không có tính cách cứu độ muôn loài của Chúa Con.

2.3. Tình yêu thần thánh hoá của Chúa Thánh Thần

Thánh hoá có nghĩa là hoá thành thánh như Thiên Chúa là đấng thánh, thần hoá có nghĩa là biến thành thần linh như Thiên Chúa. Vì thế, tình yêu thần thánh hoá của Chúa Thánh Thần luôn mời gọi chúng ta tôn trọng, nâng cao đối tượng mình yêu để giúp họ trở thành thần thánh, thành con cái Thiên Chúa như chúng ta, chứ không phải làm nhục, hạ thấp họ thành vật sở hữu của mình. Rất nhiều lần, do những tham vọng và dục vọng thúc đẩy, chúng ta đã hạ thấp, làm nhục đối tượng mình yêu, thậm chí biến người yêu thành phương tiện giải trí cho tham vọng và dục vọng hoặc bắt người yêu phải hành động như những con rối. Chúa Thánh Thần mời gọi chúng ta phải thay đổi thái độ ấy.

Lời kết

Chúng ta được mời gọi nhìn lại tình yêu của mình xem có mang những đặc tính sáng tạo, cứu độ và thần thánh hoá của Ba Ngôi không. Nếu chúng ta thể hiện những đặc tính ấy trong cuộc sống hằng ngày thì hi vọng những anh em lương dân sẽ nhận ra rằng chỉ có Thiên Chúa Ba Ngôi mà người Công giáo tuyên xưng mới có thể thay đổi triệt để đời sống con người và xã hội của họ. Lúc đó họ mới dễ dàng tin theo Chúa Giêsu.

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn

 Ủy ban Giáo dân

[1] (x. Công đồng Vaticanô II, trong Hiến chế Mục vụ “Vui mừng và Hy vọng” , số 38).

[2] (x. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Niên giám Giáo Hội Công giáo Việt Nam Năm 2016, NXB Tôn Giáo, tr 175).

[3] (x. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Từ điển Công giáo, mục từ Thiên Chúa, 2016, tr 842).

[4] (x. Hoàng Trọng Miên, Việt Nam Văn học Toàn Thư I, NXB Quốc Hoa, 1959).

[5] (x. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2013, tr 1284 )

[6] (x. Docat, câu số 16)

[7] (x. Ga 3,18; Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, số 38).

[8] (1Cr 13, 4-6) (x. Thông điệp Mater et Magistra, (1961), số 257; Docat  (2017), tr. 28).

 

 

 

 

Có thể bạn quan tâm

Để lại một bình luận